Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2007

Đôi nét về ca trù 3




Hình thức hát nói trong ca trù:

a. Bố cục một bài hát nói :
Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì bố cục một bài hát nói 11 câu chia ra làm 6 khổ:


1. Khổ nhập đề : câu 1 và câu 2, câu mở bài
2. Khổ xuyên tâm : câu 3 và câu 4
3. Khổ thơ : khổ đan câu 5 và câu 6, là hai câu thơ chữ Hán hoặc quốc âm nêu ý chính của bài hát
4. Khổ xếp : câu 7 và 8 hát mau
5. Khổ rải : câu 9 và 10 hát chậm rãi
6. Khổ kết : câu 11, tóm tắt ý kiến toàn bài.

Còn theo Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu thì bố cục một bài hát nói lại như sau :
Câu 1 – 2 : lá đầu
Câu 3 – 4 : xuyên thưa
Câu 5 – 6 : thơ
Câu 7 – 8 : xuyên mau
Câu 9 : dồn
Câu 10 : xếp
Câu 11 : keo.

Câu cuối cùng thường được đặt 6 chữ. Hai câu 5 và 6 khi đặt thành thơ thì phải theo luật thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn.

Ví dụ : Câu 5 và 6 trong bài Hồng hồng tuyết tuyết của Dương Khuê :

Ngã lãng du thời quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá ngã thành ông

Tuy nhiên vẫn có trường hợp người sáng tác không đặt theo hai thể thơ trên mà dùng câu có số chữ so le với nhau.

Ví dụ : Câu 5 và 6 của bài Rõ mặt tu mi của Nguyễn Công Trứ :

Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.

Bài hát nói có đủ 11 câu gọi là đủ khổ. Bài có trên 11 câu thì gọi là dôi khổ, ít hơn 11 câu thì gọi là thiếu khổ.

Những bài nhiều câu, vừa dôi phách nam lại vừa dôi phách bắc, cách đặt câu khúc khuỷu lắt léo, gọi là gối hạc.

Trong bài dôi khổ, khổ đầu và khổ cuối giữ nguyên, phần dôi ra thường nằm ở khổ giữa.

Ở phần dôi ra, số câu, số chữ, cách gieo vần và luật bằng trác cũng theo như các khổ chính.

Trong bài thiếu khổ, khổ bị thiếu thường là khổ giữa. Cả bài thường chỉ còn lại 7 câu.

Ví dụ : Bài thiếu khổ

Ngán cho nỗi xoay vần thế tục
Sum họp này chẳng bõ lúc phân ly
Hỡi ông tơ ! Độc địa làm chi
Bắt kẻ ở người đi mà nỡ được
Thôi đã trót cùng nhau nguyện ước
Duyên đôi ta chẳng trước thì sau
Yêu nhau nhớ lấy lời nhau.
(Tiễn biệt – Cung Thúc Thiềm)

b. Mưỡu :

Một bài hát nói thông thường có thêm phần mưỡu ban đầu. Mưỡu không phải là một phần của bài hát nói mà là một thể riêng nằm trong phần hát chơi. Hát mưỡu thuộc phách khoan, điệu hát khoan thai chậm rãi. Từ mưỡu sang hát nói phải qua năm khổ đàn là : sòng đàn, khổ giữa, khổ rải, lá đầu, sòng đàn. Mưỡu thường có hai hoặc bốn câu lục bát dùng để mở đường vào bài hát nói. Mưỡu nghĩa là mạo được đọc chệch đi, vì vậy phần mưỡu được hát lên để tóm tắt ý chính những tư tưởng trong bài hát nói.
Có hai loại mưỡu là mưỡu đơn và mưỡu kép. Mưỡu gồm 2 câu thì gọi là mưỡu đơn, gồm 4 câu thì gọi là mưỡu kép.

Ví dụ:

Mưỡu đơn :


Sầu ai lấp cả vòm trời
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung
(Chữ tình – Nguyễn Công Trứ)

Mưỡu kép :

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay
Tuyệt mù bể nước non mây
Bụi hồng trông thẳm như ngày chưa xa
(Hơn nhau một chén rượu mời - Tản Đà)

Tuy nhiên một số bài có đến 2 đoạn mưỡu đầu.

Ví dụ:

I. Tiễn ai chi liễu Giang đình
Bận ai chi mối tơ tình vương chơi
Biết ai còn nhớ đến lời
Hỏi ai còn nhớ đến người xa xa

II. Dặn ai đừng có quên ai
Bức hồng cân ấy là lời cựu minh
Chiêm bao lẩn khuất quế đình
Trông trăng mà lại tưởng tình cố nhân
(Tặng cô đầu Cần – Dương Khuê)

Lại chia ra thêm làm hai loại là mưỡu đầu và mưỡu hậu. Câu mưỡu đầu bao giờ cũng đặt trùm lên toàn bài hát và không phải hiệp vần với câu đầu bài hát nói.

Mưỡu hậu bao giờ cũng là mưỡu đơn. Mưỡu hậu thường đặt ở giữa câu xếp và câu keo, nhưng cũng có trường hợp mưỡu hậu đặt hẳn xuống dưới câu keo, nghĩa là dưới cùng của bài hát. Nếu hai câu mưỡu hậu đặt xen vào giữa câu xếp và câu keo thì câu lục phải ăn vần với câu xếp ở trên mà câu bát phải buông vần cho vần câu keo ở dưới bắt vào.

Ví dụ : 4 câu cuối bài Trải khắp đường đời của Cao Bá Quát, theo thứ tự : xếp, mưỡu hậu, keo:

Còn giận nỗi công danh chưa phỉ chí
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân
Một mai gặp hội phong vân

c. Số chữ trong câu:

Số chữ trong câu hát không hạn định. Có thể từ 4 đến 12, 13 chữ, hoặc cũng có những câu gối hạc, lối văn lắt léo, dùng đến trên 20 chữ. Câu keo thường có 6 chữ .

d. Cách gieo vần trong bài hát nói:

Trong bài hát nói, người ta dùng cả yêu vận lẫn chiết vận. Luật vần của bài hát nói có thể tóm tặt lại thành những điểm chính sau :
1. Bài hát nói bao giờ cũng bắt đầu bằng một cước vận trắc
2. Sau cước vận trắc đầu tiên là hai cước vận bằng rồi đến hai cước vận trắc, rồi lại đến 2 cước vận bằng
3. Bài hát nói tận cùng bằng cước vận bằng
4. Khi câu hát trên có cước vận trắc mà câu dưới chuyển sang cước vận bằng thì câu dưới phải có thêm yêu vận trắc. Trái lại khi câu trên có cước vận bằng mà câu dưới chuyển sang cước vận trắc thì câu dưới có thêm yêu vận bằng. Yêu vận gieo cách chữ cuối cùng trong câu hai hoặc ba chữ.
5. Riêng hai câu của khổ thơ, vì là hai câu luật nên không có yêu vận
Ví dụ :
( ghi chú : c.v.t = cước vận trắc, c.v.b = cước vận bằng, y.v.t = yêu vận trắc, y.v.b=yêu vận bằng)
Say chẳng biết phen này là mấy (c.v.t )
Nhìn non sông chẳng thấy (y.v.t ) lại là say (c.v.B )
Quái sao say say mãi thế này (c.v.B )
Say suốt cả đêm ngày (y.v.B ) như bất tỉnh (c.v.t)
Thê ngôn tuý tữu chân vô ích (c.v.t)
Ngã dục tiêu sầu thả tự do (c.v.B )
Việc trần ai ai tỉnh ai lo (c.v.B )
Say tuý luý nhỏ to (y.v.B ) đều bất kể (c.v.t)
Trời đất say là cái sướng thế (c.v.t)
Vợ khuyên chồng chưa dễ (y.v.t) đã chừa say (c.v.B )
Muốn say lại cứ mà say (c.v.B )

e. Luật bằng trắc trong bài hát nói:

Luật bằng trắc trong bài tuân theo sơ đồ sau đây, tuy nhiên chỉ bắt luật chặt các chữ thứ 2, 4, 6 (nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh )

1 t t b b t t
2 b b t t b b
3 b b t t b b
4 t t b b t t

4 câu này minh hoạ cho cả bài hát nói, trong đó câu 1 và câu 4 là những câu cùng gieo vần trắc, câu 2 và câu 3 là những câu cùng gieo vần bằng. Khổ xếp chỉ có 3 câu thì tuân theo luật của 3 câu đầu kể trên. Câu 5 và 6 trong bài hát nói (khổ thơ) cùng những câu khác trong bài, nếu đặt thành thơ thì phải theo đúng luật bằng trắc thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Những câu vừa đủ 6 chữ theo đúng luật sơ đồ trên. Còn những câu dài hơn thì đối với việc ứng dụng luật ấy, phải chia làm 3 đoạn nhỏ trong từng câu. Mỗi đoạn 2 - 4 chữ hoặc dài nữa. Trong mỗi đoạn nhỏ ấy, chỉ kể chữ cuối là phải theo luật bằng trắc, các chữ còn lại được đặt tự do.

Ví dụ :những chữ in đậm là không theo đúng luật bằng trắc, 0 = chữ gác ra ngoài luật,
/ = dấu ngắt một đoạn nhỏ trong câu

Giai nhân nan tái đắc
(theo luật thơ)
Trót yêu hoa / nên dan díu / với tình
0 b b 0 b t t b
Mái tây hiên / nguyệt dãi / chênh vênh
0 b b t t b b
Rầu rĩ mấy / xuân về / oanh nhớ
0 t t b b b t
Phong lưu công tử đa xuân tứ
(theo luật thơ)
Trường đoạn tiêu nương nhất chỉ thư
(theo luật thơ)
Nước sông Tương / một giải / nông sờ
0 b b t t b b
Cho kẻ đấy / người đây / mong mỏi
0 t t b b b t
Bứt rứt nhẽ / trăm đường / nghìn nỗi
0 t t b b b t
Chữ chung tình / biết nói / cùng ai
0 b b t t b b
Ước gì / gắn bó / một hai
t b t t t b
(Tự tình – Cao Bá Quát)

Những câu ít hơn 6 chữ chỉ chia làm 2 đoạn thì đoạn thiếu được tính là đoạn đầu, 2 đoạn còn lại theo đúng luật bằng trắc.

Vd : Câu đầu bài Chơi thuyền Hồ Tây của Nguyễn Khuyến
Thuyền lan nhè nhẹ
b b t t

Câu đầu bài Cái thú say rượu của Nguyễn Công Trứ
Say chưa ? Say mới thú
b b 0 t t

Những câu lấy chữ sẵn từ nơi khác không cần tuân theo đúng luật bằng trắc của hát nói.
Vd : 2 câu đầu bài Thanh nhàn là lãi của Cao Bá Quát lấy từ Xuân nhật tuý khởi ngôn chí của Lý Bạch.
Xử thế nhược đại mộng
Hồ lao vi kỳ sinh

Tuy nhiên trong quá trình sáng tác, văn nhân không nhất thiết phải tuân theo chặt chẽ luật đã nêu trên, có thể thay đổi, miễn là câu hát lưu loát.

Home_nguoikechuyen

Tham khảo từ các tài liệu:

1) Việt Nam ca trù biên khảo - Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề.

2) Giới thiệu về ca trù – GSTS Trần Văn Khê.

3) Đại Việt sử ký toàn thư - Ngô Sĩ Liên.

4) Vũ Trung Tuỳ Bút - Phạm Đình Hổ

5) Nhạc khí dân tộc Việt Nam – Lê Huy và Huy Trân.

http://www.ttvnol.com/nhacdantoc/493828/trang-9.ttvn

Đôi nét về ca trù 2




Thể hiện ca trù:

Một đào nương hát độc xướng, tay gõ "phách" bằng tre hay bằng gỗ, với hai dùi bằng gỗ, một dùi tròn, một dùi chẻ làm hai gập lại. Có hai cách hát: “Hát khuôn”, theo lề lối “tròn vành rõ chữ”, một chữ phải uốn nắn công phu, một chữ phải có dư âm, phải biết cách “đổ hột” tức là ngân ngắt đoạn tiếng nghe như tiếng hạt châu rơi trên mâm, phải gằn lấy hơi từ cổ họng, chứ không phải từ lồng ngực như theo cách hát của phương Tây. Đổ hột làm cho câu hát thêm duyên, có khi như tiếng nức nở, thở than. Đổ hột thật nhuyễn, trong tiếng nhà nghề gọi là “đổ con kiến” (theo lời cụ Quách Thị Hồ). Hát bay bướm gọi là “hát hàng hoa”. Gõ dùi chẻ xuống phách gọi là “lá phách”. Gõ dùi tròn xuống phách là “tay ba”. Gõ phách phải một tay thấp một tay cao, một tiếng nhẹ một tiếng mạnh, một tiếng đục một tiếng trong, hai tiếng cùng đánh trong một lúc gọi là “chát”, hai phách âm dương chen nhau, xen kẽ, pha trộn, có nhịp mà nghe như không có nhịp, có mà như không, thực mà như hư, hiện mà như ẩn.

Thứ hai là người chơi đàn đáy. Đàn khảy bằng dăm tre, người chơi đàn đáy phải đánh rõ tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, tay trái phải biết cách nhấn, rung, nhấn chùn, bấm 3 dây khi đàn chữ “dinh dinh dinh” . Khi chân phương khi dìu dặt, khi mạnh khi nhẹ, tiếng đàn trong đoạn sòng đầu, lưu không hay phụ hoạ theo lời ca chẳng những có nét nhạc, mà còn tạo nên “hồn nhạc”.

Nhân vật thứ ba là người cầm chầu. Người cầm chầu gọi là “quan viên”, phải sành ca trù, biết rõ các khổ đàn, khổ phách, biết đàn thế nào là hay, hát thế nào là “khuôn”, là “hàng hoa” và không đánh trống “bịt miệng ả đào”, lại phải nắm rõ các công thức xuyên tâm, song châu, liên châu, hạ mã, lạc nhạn để khen chê, thưởng phạt đúng nơi đúng cách, dáng ngồi, tay cầm roi, tay vịn mặt trống phải phong lưu đài các. Nghe tiếng chầu, thính giả biết giá trị và phong cách của người cầm chầu.

Nhạc cụ :

I/Đàn đáy :

1.Nguồn gốc :

Đàn đáy có từ bao giờ không rõ nhưng ít ra cũng được nhắc tới vào khoảng cách đây gần 200 năm.Theo sách Ca trù thể cách, tương truyền chiếc đàn đáy do tổ cô đầu là Đinh Lễ đời nhà Lê sáng tạo ra, làm từ gỗ ngô đồng xém đuôi, bắt chước theo kiểu vẽ do Lã Đại Tiên (một trong Bát Tiên) trao tặng.

2. Tên gọi :

Có 2 thuyết :
a. Theo sách Ca trù biên khảo và Vũ Trung Tuỳ Bút, khi hát ổ cửa đền, người kép lấy lụa đeo đàn vào người để đứng gẩy cho đỡ mỏi nên gọi là đàn đáy. Đáy là do đọc chêch từ chữ Đới nghĩa là đeo.

b. Truyện Đất Tổ : Đời nhà Lê, Đinh Lễ chế ra một cái đàn để gảy theo điệu hát cô đầu, khúc đàn cuồn cuộn như nước chảy ra biển sâu không thấy đáy. Về sau người ta gọi tắt là đàn đáy. Ở miền Trung từ Thanh hoá trở vào đều gọi là Vô Đề Cầm.

3.Hình thức cấu tạo:

Đàn đáy gồm các bộ phận:

- Bầu đàn: Bầu đàn bằng gỗ hình thang cân. Đáy lớn lại ở phía trên rộng khoảng 23 cm, đáy bé ở phía dưới rộng khoảng 20 cm, cạnh hai bên đo được khoảng 34 cm. Thành bầu vang dầy khoảng 8 cm, bằng gỗ cứng. Mặt bàn bằng gỗ ngô đồng để mộc. Đáy đàn thủng một hình chữ nhật. Trên mặt đàn có gắn một bộ phận (cái thú) có lỗ để mắc dây đàn.

- Cần đàn và bầu đàn: cần đàn dài 1,16 m trên có gắn từ 10 đến 12 phím bằng tre. Những phím này cao và dầy, đỉnh phím dài hơn chân phím. Phím thứ nhất (tính từ trên đầu đàn xuống) không gắn vào sát sơn khâu như ở các nhạc khí khác mà lại gắn vào giữa cần đàn.

- Đầu đàn hình lá đề. Hốc luồn dây có ba trục vặn dây.

- Dây đàn: Đàn đáy có 3 dây đàn bằng tơ xe. Dây mềm, dài, dễ nhấn. Nay có thể dùng dây ni lông các cỡ to nhỏ khác nhau.

4.Màu âm:

Mầu âm đàn đáy gần giống mầu âm đàn nguyệt, nghe ấm áp, dịu ngọt, đôi lúc lại hơi đục, thích hợp với các loại tình cảm sâu sắc.

5.Cung bậc:

Gồm 5 cung :
- Cung nam : bằng phẳng và xuống thấp
- Cung bắc : rắn rỏi mà lên cao
- Cung nao : tiếng dính vào và đi mau
- Cung pha : ai oán, hơi chệch âm đi
- Cung huỳnh : chênh vênh, chuyển giữa cung nọ và cung kia
Về sau có thêm 1 cung nữa là cung pha có đặc điểm lên cao ở phía cuối câu đàn.

6. Kỹ thuật diễn tấu:

A - KỸ THUẬT TAY PHẢI:

(Đã giới thiệu trong phần thể hiện)

B - KỸ THUẬT TAY TRÁI:

Các ngón bấm tay trái như ngón rung, ngón nhấn, ngón láy…ở đàn đáy đều đánh được như đàn tỳ bà. Riêng ngón láy ở đàn đáy, hai âm nhấn láy đều cách nhau một quãng 3 ( tức là có thể nhấn cung phím sâu hơn so với các đàn gẩy dây khác).

Ngoài ra ở đàn đáy, có một ngón bấm đặc biệt là:

1 – Ngón chùn: Dùng đầu ngón tay ( thường là 2 ngón) trong khi bấm trên dây, miết về phía bầu vang làm cho đoạn dây từ cung phím ấy đến cái thú chùng lại, âm thanh trở thành thấp hơn âm thường đánh.

Ngón chùn là ngón đàn cổ truyền độc đáo làm cho âm thanh mềm mại, nghe tương tự như ngón nhấn luyến xuống bằng cách mượn cung.

2 – Đánh chồng âm, hợp âm: Đàn đáy có 3 dây. Do đó có khả năng đánh chồng âm, hợp âm. Trong dân gian thường gọi là ngón sòng hay còn gọi là sòng đàn, một cách đánh hai âm một lúc.

Ngón sòng được đánh thường xuyên, mỗi ngón gồm hai âm cách nhau một quãng 5 hay cách nhau một quãng 8.

II/Phách:

1.Hình thức cấu tạo:

Bộ phách ca trù gồm có bàn phách, tay ba và hai lá phách.

Bàn phách: là một miếng tre già dài chừng 30 cm, bản rộng khoảng 4 cm. Hai đầu bàn phách là hai đầu mấu tre để làm chân cho mặt bàn phách cao lên. Trông bàn phách giống một chiếc ghế dài nhỏ mà hai đầu mấu tre là hai chân ghế.

Lá phách: là hai dùi gõ kép, gồm hai mảnh để chập vào nhau như một chiếc dúi bổ dọc ra. Hai lá phách dài khoảng 28 cm, do tay phải người đánh phách cầm chập vào nhau để gõ vào mặt bàn phách.

Tay ba: là dùi gỗ cầm bằng tay trái. Tay ba thường làm bằng gỗ mít. Chiều dài như hai lá phách.

2.Màu âm:

Do cấu tạo đặc biệt của bàn phách và các dùi gõ, màu âm của bộ phách ca trù rất phong phú. Khi sử dụng tay ba gõ xuống bàn phách, tiếng phách nghe gọn, ròn và trong.

Khi dùng hai lá phách gõ xuống bản phách, màu âm hơi đục, nhờ và bẹt (vì khi gõ, ngoài âm thanh do hai lá phách gõ xuống bàn phách, còn có một âm thanh nữa do hai lá phách đập vào nhau phát ra).

Khi tay ba và hai lá phách cùng gõ một lúc xuống bàn phách, tiếng phách nghe hơi thô nhưng khỏe, chắc.

3.Kỹ thuật diễn tấu:

Phách cấu tạo đơn giản nhưng kỹ thuật diễn tấu rất phong phú, rất sinh động.

Nghệ nhân để chỉ ba âm thanh chính của phách là : phách, rục, chát.

Đó cũng chính là ba kỹ thuật cơ bản của cách đánh phách cổ truyền. Ngoài ra còn ngón ve phách mà nghệ nhân gọi là rung phách.

a)Ngón phách: Do hai lá phách (tay phải) gõ xuống mặt bàn phách.

b) Ngón rục: Do hai tiếng tay ba (tay trái) nhẹ nhàng gõ nhưng thật nhanh như nẩy trên bàn phách, tiếp ngay sau là hai lá phách (tay phải), gõ xuống bàn phách. Ba tiếng đó đi liền nhau, kết hợp với nhau tạo thành tiếng rục.

Khi sử dụng nhiều tiếng rục đi liền ở tốc độ nhanh gây được một cảm giác náo nức khẩn trương, không ổn định. Nếu tiếng rục đi liền nhau ở tốc độ vừa phải, lại gây cho người nghe một cảm giác vững vàng, ổn định.

c) Ngón chát: Tay ba và hai lá phách (nghĩa là cả tay trái và tay phải) cùng gõ xuống bàn phách nhưng có điều đặc biệt là hai lá phách gõ xuống trước tay ba một chút, sau khi gõ xuống bàn phách, cả hai tay không nhấc lên ngay. Tiếng chát nghe khoẻ, chắc, gây một ấn tượng vững chắc. Âm thanh của chát nghe mộc mạc nhưng hơi thô.

Tiếng chat thường điểm vào những chỗ kết thúc một ý nhạc, một ý thơ.

d) Ngón vê: (rung phách)

Tiếng vê thường được dùng sau mỗi câu hát, câu đàn và được dùng nhiều trong các làn điệu mang tính chất ngâm ngợi như trong các điệu: đọc thơ, ngâm vọng, ngâm thơ…

Có hai lối vê:

Lối 1: Tay ba và hai lá phách thay đổi nhau gõ nhanh trên bàn phách. Lối vê này được sử dụng phổ biến.

Lối 2 : Tay ba giơ cao phía trên bàn phách, hai lá phách luồn vào giữa gõ nhanh vào bàn phách và tay ba. Lối vê này ít được sử dụng, thấy xuất hiện trong bài Tỳ Bà Hành.

Thông thường, trước khi vào vê là một chuỗi tiếng rục tiến hành với tốc độ nhanh dần rồi bắt vào tiếng vê.

MỘT SỐ KHỔ PHÁCH:

Trong lối hát ca trù, thông thường trước khi vào bài hát (hoặc ở những đoạn lưu không) có một chuỗi khổ phách kết hợp với diễn tấu cảu đànm đáy. Những khổ phách này thường là khuôn mẫu hoặc là chủ đề tiết tấu phách của mỗi đào nương.

Trong các đào nương, có năm khổ phách lần lượt tiến hành như sau:

1 - Khổ đầu còn gọi là sòng đầu.

2 - Khổ giữa.

3 - Khổ róc còn gọi là khổ xiết.

4 – Lá đầu.

5 – Sòng cuối còn gọi là sòng dây.

Tiết tấu phách ở khổ đầu và sòng cuối thường giống nhau.

Năm khổ phách này, đào nương diễn tấu có khác nhau, biến hoá theo phong cách riêng của mình.

Khổ đầu và sòng cuối : Chuỗi phách này thường tiến hành với 3 hay 6 sòng đàn mở đầu hoặc kết thúc với tiết tấu phách đơn giản. Trong 5 khổ phách, đây là 2 khổ phách nhiều đào nương thống nhất cách đánh.

Khổ giữa : Chuỗi phách này tiến hành khi đàn bắt đầu đánh giai điệu. Từ khổ giữa tiết tấu của phách được phát huy, biến hoá phong phú và cũng thể hiện rõ phong cách diễn tấu riêng biệt của từng đào nương.

Khổ róc : (khổ xiết)

Khổ phách này tiết tấu có phần phức tạp hơn.

Lá đầu : Khổ phách này tiết tấu đơn giản dần để đi vào vòng cuối, chuẩn bị bắt đầu câu hát.

Năm khổ phách trên thường diễn tấu cùng với đàn đáy trước khi hát hoặc ở những đoạn đầu lưu không.

III/Trống chầu :

1.Hình thức cấu tạo:

Mặt trống : Trống chầu có hai mặt, hình tròn, đường kính như nhau, khoảng 15 cm. Mặt trống thường được bịt bằng da nách trâu đã nạo mỏng (chất da ở đây rất bền, dai, đủ sức chịu đựng độ căng trên mặt trống). Đường viền da bịt mặt trống chùm xuống tang trống khoảng 3 cm và được đóng bằng đinh tre.

Mặt da trống rất căng những vẫn phải bảo đảm một định âm cần thiết phù hợp vợi giọng hát của đào nương.

Tang trống : Thường làm bằng gỗ mít, cao khoảng 18 cm, khoét từ một khúc gỗ mít (gọi là tang liền) hoặc có thể chắp các mảnh gỗ mít lại làm tang trống sau đó sơn chùm ra ngoài. Làm theo cách thứ nhất, trống chầu có hình dáng và màu âm đẹp hơn nhưng tang trống dễ nứt và tốn kém.

Dùi trống : Làm bằng gỗ cứng, dài khoảng 25 cm, một đầu to, một đầu nhỏ. Phía tay cầm là đầu to, phía gõ là đầu nhỏ.

2.Màu âm:

Âm thanh trống chầu đanh, gọn và ít vang. Do cách đánh thay đổi, khi đánh vào mặt trống, khi đánh vào tang trống. Khi biểu diễn ca trù, âm thanh của trống chầu gây cho người nghe cảm giác sâu sắc.

3.Kỹ thuật diễn tấu:

Như đã nói trên, dùng trống chầu, không những chỉ đánh trên mặt trống (ở nhiều vị trí), mà còn kết hợp đánh vào tang tống làm cho âm thanh, tiết tấu càng thêm phong phú.

Trên mặt trống, có thể đánh vào giữa mặt trống, lại có thể đánh vào cạnh mặt trống. Đánh vào giữa mặt trống, người cầm chầu thường đánh bằng đầu dùi. Trường hợp này, tiếng trống nghe vang, ròn. Đây là cách đánh bình thường, gõ vào mặt trống và nhấc dùi ngay. Nếu gõ vào mặt trống nhưng giữ nguyên dùi trên mặt trống, âm thanh sẽ không vang mà lại khô, xỉn. Đánh vào cạnh mặt trống, phải đánh bạt sang bên. Trường hợp này có kết hợp bịt một phần mặt trống bằng tay kia, tiếng trống nghe đanh, gọn như tiếng phách.

Trống chầu, thường dùng hai dùi, đánh thay đổi lần lượt, cũng có khi đánh cả hai dùi một lúc (nhất là những khi gõ vào tang trống), cũng có lúc dùng một dùi để điểm xuyết nhẹ nhàng cho người hát.

a) Kỹ thuật đánh trên mặt trống:

1- Ngón vê : Hai tay thay đổi nhau gõ dùi liên tục và thật nhanh giữa mặt trống. Tiếng trống vang rền, rộn rã gây hiệu quả dồn dập, thúc bách.(thường sử dụng trong chèo)

2 - Ngón bịt : Tiếng trống bịt làm màu âm thay đổi, âm thanh này gợi lên những tình cảm không bình thường, có phần bực bội, u uất, căng thẳng.

Có hai cách bịt :

+ Bịt bằng tay : Một tay gõ trống, âm thanh vừa vang lên, lập tức tay kia, hoặc là tay vừa gõ, bịt ngay mặt trống. Tiếng trống phát ra nghe bẹt, hơi xỉn.

+ Bịt bằng dùi : Một tay gõ trống, âm thanh vừa vang lên, lập tức dùng đuôi dùi tay kia, có khi dùng tay dùi tay vừa gõ bịt mặt trống (tức là sau khi gõ, lộn ngay đầu dùi lên, rồi đặt ngay đuôi dùi vào mặt trống). Cớ trường hợp đặt sẵn một đầu dùi trên mặt trống, còn dùi kia gõ. Tiếng trống phát ra nghe khô, đanh.

Người ta còn có thể di động tay bịt hay dùi bịt trên mặt trống, trong khi tay kia vẫn gõ để tạo nên những âm thanh có độ cao màu âm khác nhau.

b) Kỹ thuật đánh trên tang trống:

Sử dụng cách đánh vào tang trống chầu rất quan trọng. Nhờ kết hợp tài tình giữa các lối đánh vào mặt trống và tang trống, có thể làm nổi bật sự đối lập nhưng lại hài hoà về màu sắc âm thanh, tiết tấu.

Có hai cách đánh vào tang trống :

1.Ngón vê : Cũng như ngón vê trên mặt trống. Hai tay thay đổi nhau gõ thật nhanh và liên tục vào hai bên tang trống.

2.Ngón róc : Giống như ngón vê, hai tay thay đổi gõ nhanh vào tang trống, nhưng thường là năm tiếng một, tiếng sau cùng có độ ngân bằng bốn tiếng đầu và ở vào đầu phách. Nghệ nhân gọi ngón kỹ thuật này là ngón róc ( một công thức của ngón vê được sử dụng nhiều).

(Trong phần kỹ thuật diễn tấu các nhạc cụ này mình nêu chung cho các loại hình sử dụng nhạc cụ chứ không chỉ nêu riêng trong ca trù, nên có một số kỹ thuật các bạn đọc không áp dụng trong ca trù - loại hình nghệ thuật yêu cầu sự chậm dãi, như kỹ thuật ngón vê trong diễn tấu trống chầu... Còn các công thức xuyên tâm, song châu, liên châu, hạ mã, lạc nhạn, nếu có thời gian mình sẽ nói sau)-ghi chú của home_nguoikechuyen.

Đôi nét về ca trù 1




Tìm thấy bài viết của bạn home_nguoikechuyen trên ttvnol khá công phu và đầy đủ về ca trù, back up lại đây để tìm hiểu và tán dần.

------------


Đôi nét về ca trù

Trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, không một thể loại âm nhạc nào có tính đa diện như ca trù. Ca trù thuộc về loại thính phòng tức là loại nhạc trong đó một số nhỏ diễn viên đàn ca cho một số nhỏ thính giả nghe, trong một gian phòng tương đối nhỏ.

Nguồc gốc, tên gọi và ý nghĩa:

Ca trù hay ban đầu gọi là hát ả đào có từ thời Lý. Thuở ấy những người đi hát được gọi là con hát, hay chữ Hán gọi là xướng nhi, hoặc ca nữ.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên thì đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) có người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát, thường được nhà vua ban thưởng. Người thời bấy giờ ngưỡng mộ danh tiếng của Đào Thị nên phàm con hát đều gọi là Đào nương.

Còn theo sách Công dư tiệp ký (trang 78) viết “Cuối đời nhà Hồ (1400-1407) có người ca nương họ Đào, quê ở làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được nhiều binh sĩ nhà Minh, cứu cho khắp vùng yên ổn. Khi nàng chết dân làng nhớ thương lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn ả đào. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là ả đào”.

Sang đến thời Hồng Đức (1470-1497) thì ca trù được phát triển mạnh. Thời đó vua sai các quan kê cứu âm nhạc nước Tàu, hợp vào âm điệu nước nhà rồi đặt ra hai bộ Đồng văn, chuyên tập âm luật, và Nhã Nhạc chuyên luyện nhân thanh.

Âm nhạc và ca khúc đời Hồng Đức có:

1.Cung Hoàng chung
2.Cung Nam
3.Cung Bắc
4.Bát đoạn cẩm
5.Đại thực
6.Dương Kiều
7.Âm Kiều
8.Hà bắc
9.Hà nam
10.Thiết nhạc
11.Đàn lẩy (nẩy)
12.Hát tầng

(So sánh âm luật đời Hồng Đức với lối hát ca trù ngày nay, ta nhận thấy trong 12 lối kể trên chỉ còn 5 lối lưu truyền lại là Cung Bắc, Đại thực, Hát tầng (nay gọi là Xướng tầng), Thiết nhạc, Hà nam. Riêng lối Hà nam người ta phỏng theo đó mà đặt ra điệu hát nói).

Ngoài tên gọi hát ả đào, ca trù ( trù ở đây là cái thẻ tre ghi các mức tiền ứng với các thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng) và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng chát, bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thưởng cho một cái trù. Đến sáng đào kép cứ theo trù thưởng mà tính tiền) loại hình nghệ thuật này còn có các tên gọi khác nữa là hát cửa quyền, hát cửa đình, hát nhà trò, hát nhà tơ, hát cô đầu, hát ca công…Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về các tên gọi khác đó.

Hát cửa quyền: Là hình thức sinh hoạt nghệ thuật Ca trù trong các nghi thức của cung đình thời phong kiến. Theo Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tuỳ Bút có viết : Hát Ca trù đời nhà Lê ở trong cung gọi là Hát cửa quyền. Triều đình cắt cử hẳn một chức quan để phụ trách phần lễ nhạc trong cung, gọi là quan Thái thường. Hát cửa quyền được dùng vào các dịp khánh tiết của hoàng cung.

Hát cửa đình: Đây là hình thức sinh hoạt Ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng. Trên thực tế, người ta còn mượn không gian đình đền để tổ chức hát Ca trù với mục đích giải trí đơn thuần. Song, hát tế lễ vẫn được coi trọng hơn với cả một trình thức diễn xướng tổng hợp kéo dài. Bởi vậy, thuật ngữ Hát cửa đình vẫn được sử dụng với hàm ý chỉ loại âm nhạc Ca trù mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng nơi đình (đền) làng.

Hát nhà trò: Trong trình thức Hát cửa đình, bên cạnh âm nhạc bao giờ cũng có sự kết hợp của nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân khấu. Người ta gọi đó là "bỏ bộ". Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm điệu bộ người điên, người say rượu, người đi săn... Vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là Hát nhà trò. Cách gọi này phổ biến ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Như vậy, Hát nhà trò cũng là thuật ngữ xuất phát từ hình thức phục vụ nghi lễ, tín ngưỡng.

Hát nhà tơ: So với các tên gọi khác của nghệ thuật Ca trù, Hát nhà tơ là một thuật ngữ ít phổ biến. Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì thời xưa, “dân chúng ít khi tìm ả đào về nhà hát chơi, chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay trong ty (tơ - ngày xưa dinh Tuần phủ gọi là Phiên ty, dinh án sát gọi là Niết ty) mới tìm ả đào tới hát. Vì thế hát ả đào còn được gọi là Hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan”.

Hát cô đầu: Theo Việt Nam ca trù biên khảo, chữ ả nghĩa là cô, ả đào nghĩa là cô đào. “Những ả đào danh ca dạy con em thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám, bọn con em phải trích ra một món tiền để cung dưỡng thầy gọi là tiền Đầu. Sau người ta dùng tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng, và tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc danh ca lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và được tặng nhiều món tiền đầu nên gọi là Cô đầu”.

Hát ca công: Theo Vũ Trung Tùy Bút thì cho đến cuối thời Lê, ca công là danh từ được dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo phường. Theo đó, Hát ca công hàm ý là âm nhạc giáo phường.

Những lối hát ca trù:

Ca trù chia ra làm 3 lối hát chính:
1. Hát chơi
2. Hát cửa đình
3. Hát thi

Hát chơi là lối hát tổ chức tại nhà quan viên, hay nhà ả đào để quan viên thưởng thức. Về hát chơi, ả đào phải hát khuôn hơi diệu vợi, thường hát những bài tả tình, tả cảnh, thuật hoài, đều ngụ ý phóng khoáng, phong lưu, tình tứ.

Hát cửa đình là lối hát thờ thần. Hát cửa đình phải đúng thể cách, những cũng có khi hát đơn giản, câm hơi cho được lâu như là hát lót. Hát cửa đình thường hát những bài về sử, về kinh truyện và sự tích danh nhân, ngoài những khúc hát do đào hát còn có những khúc do kép hát và vũ bộ.

Hát thi là lối hát để khảo sát tài năng của đào kép. Hát thi gồm những khúc hát chúc tụng vua chúa, thần và dân, lại gồm đủ các khúc trong ca trù mà đào kép đều phải hát.

Các thể ca trù, kể cả hát chơi, hát cửa đình, và hát thi gồm có:
1. Bắc phản
2. Mưỡu
3. Hát nói
4. Gửi thư
5. Đọc thơ, Thổng, Dồn
6. Đọc phú
7. Chừ khi
8. Hát ru
9. Nhịp ba cung bắc
10. Tỳ ba
11. Kể truyện
12. Hãm
13. Ngâm vọng
14. Xẩm cô đầu
15. Ả phiền
16. Giáo trống
17. Giáo hương
18. Dâng hương
19. Thiết nhạc
20. Hát giai
21. Đại thạch
22. Bỏ bộ (vũ)
23. Múa bài bông (vũ)
24. Chúc hỗ
25. Múa tứ linh
26. Ca đàn
27. Thơ cách
28. Hát giai câu một
29. Giáo thơ phòng
30. Thơ phòng
31. Hà liễu câu một
32. Trở tay ba
33. Chúc tam thanh
34. Hà nam câu một
35. Dóng chinh phu
36. Dựng huỳnh
37. Ngâm sang hát giai
38. Xướng tầng
39. Ngâm phú
40. Màn đầu hát gái
41. Mã thượng kiều
42. Hát sử và Dã sử
43. Màn đầu hát truyện
44. Phản huỳnh
45. Non mai
46. Hồng hạnh.

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2007

Khoa bảng

1. Tin giáo sư Cao Xuân Hạo qua đời được thông tin rộng rãi trên mạng. Tất nhiên cũng chỉ có thể dừng lại ở những thông tin và nhận định chung chung về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Những vấn đề ngôn ngữ học thì quá ít người đủ am hiểu để bàn tới, hoặc giả có am hiểu thì vấn đề chẳng có cách nào gói lại được trong 1 bài viết ngắn trên báo cả. Cá nhân tớ cũng rất nghi ngờ tính hữu ích của việc người ta thảo luận rất hoành tráng về 1 vấn đề hoành tráng của KHXHNV bằng những comment ngăn ngắn trên blog hay cho dù là bằng 1 bài báo.

Trước tớ cũng có ý định tìm hiểu ngành ngôn ngữ học, sau 1 hồi thấy nản quá nên thôi. Thế mới thấy cụ Nguyễn Hiến Lê sáng suốt, cụ ưu tiên cho cuốn "Tôi tập viết Tiếng Việt" hơn là mấy cuốn chuyên sâu về ngôn ngữ học. Nhân tiện quảng bá cuốn này luôn: đơn giản, sáng sủa và thú vị - đố các bạn tìm được 1 cuốn về ngôn ngữ học mà thú vị được đấy. Tác giả không có ý định lập thuyết mà đưa ra những nguyên tắc thiết thực định hướng tới 1 văn phong sáng sủa, ít Tây hoá.

Mục lục của cuốn này:

1. Liên tục và cân xứng
2. Xung đột trong liên tục-tách ra và gom lại
3. Đặt sai vị trí
4. Một số cạm bẫy-đồng âm dị nghĩa
5. Thiếu-Dư và ý tưởng lộn xộn
6. Sự thuần khiết

Phụ lục
Dịch văn ngoại quốc
Các thuật ngữ ngôn ngữ học

Hiện nay chỉ có bản "Chúng tôi tập viết Tiếng Việt" bao gồm cả phần ghép thêm của Nguyễn Quang Thắng, nhưng cá nhân tớ thấy nó không phù hợp, nên tách ra.


Nhân tiện nhớ đến lời khuyên của cụ Cao Xuân Huy với ông Cao Xuân Hạo về việc nên mở rộng tìm tòi theo hướng tương quan giữa ngôn ngữ và lối tư tưởng. Ông Hạo đã nhận là không đủ khả năng. Câu trả lời thể hiện cái ý thức biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết của người có học vấn. Nhưng thật đáng tiếc, liệu có phải các cuộc tranh luận bất phân thắng bại của các trường phái ngôn ngữ học là do ở nguyên nhân này??? Cũng trùng hợp là 1 trong những nhánh quan trọng của triết học lại đang xích gần với ngôn ngữ học?


Năm 1983 đám tang của cụ Cao Xuân Huy chỉ có khoảng 30 khách thăm viếng. Đến 1995 thì Nguyễn Huệ Chi biên tập lại và cho xuất bản cuốn "Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu". Đây là kết quả biên tập lại từ những ghi chép bản thảo của Cao Xuân Huy bao gồm 4 phiên bản khác nhau. Khác nhau về thứ tự, đề mục, ý tưởng...Mọi người ngày nay biết đến cụ Cao Xuân Huy phần nhiều là nhờ tác phẩm này. Đọc xong cá nhân tớ có mấy điều chưa thoả mãn lắm:

i-Nếu là 1 lĩnh vực khác thì không sao, đã trót mệnh danh cụ là nhà "Đạo học" thì nên chăng cứ nguyên bản mà trình làng-cho thiên hạ dọ dẫm theo bước tiến thoái của người hiền mà may chăng lĩnh hội được điều gì đó bổ ích? "Nói không được, không nói không được" là 1 nội dung lớn trong "Đạo học" nay bị biên tập cứ thẳng băng băng mà chạy ro ro liệu có bị rơi rớt đi không? Để ý sẽ thấy cách cụ dùng từ "gợi" "tham chiếu", "giả thuyết để làm việc"...

ii-Cuộc đời sự nghiệp của cụ gắn liền với việc giảng dạy văn hoá cổ Đông phương, nhưng đọc trong những bài viết của học trò của cụ e là chả thấy được mấy dấu vết lĩnh hội :( Hoặc là nhanh chân nhanh tay ghép cho Thầy cái mũ "nhà chủ toàn" rồi tán A tán B là xong. Hoặc lại ôn nghèo kể khổ, trích dẫn mấy giai thoại từ thời NVGP với lòng tự hào của 1 chứng nhân. Có bài viết của Phan Ngọc là đáng kể nhất nhưng cũng chỉ là những khởi đầu mà thôi. Trong bối cảnh, điều kiện đương thời của mình, những tư tưởng của cụ Cao Xuân Huy là những điểm sáng đáng kể và thực là "những đề cương để làm việc" dài dài cho con cháu. Nhưng e là đến nay trong điều kiện thông tin tài liệu rộng rãi thì việc đối chiếu các tư tưởng triết học không thể đơn giản thế được rồi. Có thế cụ CXH vẫn đúng nhưng những điều cụ nói riêng rẽ thì không phải triết học phương Tây chưa chạm đến. Các học trò cụ cứ dẫn cái "A và phi A" ra để minh chứng cho chủ biệt thì e là các vị chưa chịu khó học lịch sử triết học phương Tây lắm. Cái tư tưởng này của Aristote đã bị đặt lại từ lâu (do ai thì tớ nhất thời không dẫn ra được, bác nào biết chỉ giùm :) Nhưng không phải vì thế mà tớ phủ nhận tầm vóc của cụ. Sống trong Đạo thì có lẽ phát ngôn hành xử chỉ vậy thôi; nắm bắt được đến đâu là do cơ duyên. Vấn đề là hoặc chúng ta cũng thực sự đi theo con đường đó, tư duy bằng lối tư duy đó, hành xử như hành xử đó; hoặc là chúng ta cần phải dụng công hơn nhiều, chi tiết, quanh co hơn nhiều-theo 1 lối khác, lối hiện đại-để có thể trung thực với chính mình khi phát biểu. Điểm này hấp dẫn à nha! Đây là chỗ để có thể so sánh tương quan giữa ngôn ngữ học và lối tư tưởng của Đông và Tây. Theo những gì hạn hẹp mà tớ biết, tớ thấy có Francois Jullien là triết gia am hiểu phương Đông nhất và cái cách mà ông đối quan sát tương quan Đông Tây là đã thoát khỏi lối so sánh liệt kê phiến diện thường gặp hiện nay.


2. Buôn chuyện theo trí nhớ-đang ớm không lục lại ghi chép cũ được.

Chuyện đời cụ Cao Xuân Huy có nhiều điểm đáng quan tâm vì nó có thể ảnh hưởng đến tính cách và nhân sinh quan của cụ nhiều. Những thông tin này tớ nhớ là do đọc cuốn "Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu" trong TVQG trước đây. Sách cũng có 2 phần, phần đầu là hậu sinh vào điểm danh kể chuyện. Nhiều chuyện không thấy có trong tập "GS CXH người thầy-nhà tư tưởng" xb 2001 sau này.


Chuyện thứ nhất là về mặt trái của 1 gia đình khoa bảng phong kiến, do một người trong họ kể. Mẹ của CXH là vợ lẽ của ông CXT, vì không chịu được thân phận làm lẽ nên sau khi sinh ông xong đã bỏ về quê nhà (Quỳnh Đôi) mãi đến khi ông khoảng 10 tuổi mới quay lại nhà chồng. 1 chi tiết nhỏ nhặt nhưng cũng hé lên nhiều điều. Tuổi thơ của ông đã trải qua như thế nào khi không có sự hiện diện của mẹ đẻ và những câu hỏi xung quanh đó. Quan hệ với mẹ sẽ như thế nào khi đến 10 tuổi mới gặp mẹ lần đầu. Những sự kiện này chắc chắn ảnh hưởng rất lớn đến nội tâm của ông.


Năm 15 tuổi CXH thi Hương và bị đánh hỏng vì phạm trường quy (làm bài hộ người chú). Chuyện này nếu thoáng qua thì cũng bình thường. Tất nhiên chúng ta có thể hiểu không nên yêu cầu quá cao ở tính trung thực của 1 cậu bé 15 tuổi nhưng nếu hiểu Khổng học 1 chút thì chúng ta có thể đánh dầu 1 điểm rằng: lúc đó CXH chưa thưc sự hiểu Khổng giáo, chưa sống như 1 nhà Đạo học :) Bắt bẻ thế cho vui thôi chứ theo mình điều đáng quan tâm lại từ 1 quan điểm khác hiện đại hơn, đời hơn: đây đánh dấu 1 tinh thần chống đối, bất phục với các kỷ cương phong kiến rồi. Tin rằng cả ông nội hay cha của cậu cũng không bao giờ đồng ý cho con làm việc đó. Vậy chỉ có thể do cái suy nghĩ của cậu mà làm ra việc đó thôi.

Năm 25 tuổi, tốt nghiệp CĐSP Đông Dương, CXH về dạy ở Trường Quốc học Huế và bắt đầu quen biết với bà Tôn Nữ Thị Cơ, bán hàng nước. 2 năm sau CXH tham gia Tân Việt bị đi đày ở Lao Bảo. Bà TNTC đến thăm nuôi ông. 29 tuổi được trở về Huế CXH xây dựng gia đình không giá thú với bà TNTC, bất chấp sự phản đối của gia đình.

Khoảng 1938 (ông sinh 1900), quan hệ gia đình rạn nứt nhưng bà TNTC vẫn sống với gia đình đến 1944 rồi chính thức kết hôn với người khác. Chuyện li kỳ ở chỗ sau đó nhiều năm bà vợ vẫn thỉnh thoảng về qua nhà sống như chưa có chuyện gì xảy ra, ông vẫn điềm nhiên không phản ứng còn bà thì càng ngày càng quá. Cuối cùng con cái phải lừa lúc bà ngủ say để lấy dấu điểm chỉ vào giấy li hôn!!!


Chuyện ông hiến thư viện Long Cương cho nhà nước thì nhiều người biết rồi. Chính nhờ đó mà chúng ta biết được nhiều trước tác rất quý hiếm hầu như đã thất truyền. (Hình như của Nguyến Trãi nữa, nhưng tớ không nhớ chính xác).


Chuyện cuối cùng, nghe ông TQV kể về việc cụ CXH có ý định giảng giải cái "học thuyết của tôi" cho TQV, nhưng vì chót khoe với ông cháu của cụ mà bị chặn lại thấy thật tiếc. Không phải tiếc cho ông TQV không học được cái "học thuyết đó", không phải tiếc cho con cháu họ Cao không "ghi âm lại rồi viết thành sách" được nó mà tiếc sao với cái thân tình ngày đó, ông V không lén lút đến mà hỏi Thầy đằng này lại tự ái rồi thôi.



Đạo mà có thể truyền riêng thì người ta ai cũng truyền cho con cháu người nhà mình rồi. Hình như Trang tử nói câu này thì phải.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2007

Nhắm mắt, nghe thời gian trôi...




Lặng lẽ cúi đầu.
Mắt mũi ngầng ngậng.
Tất cả nhoà đi. Nhoè nhoẹt.

Cốc nước sôi đã nguội. Mình đang chờ đợi gì? Chỉ đơn giản là cúi mặt xuống. Đã từng như thế và bây giờ lại đang như thế.

Sao lại là mùa thu?
Nhớ khói thuốc cùng tách cafe nóng. Bạn bè? Vô nghĩa tuyệt đối. Mắt đỏ hoe. Ngứa.

Muốn xẻ tung tất cả. Giá mà khạc ra được. Bất xá.

Nhớ em. Nhưng lúc này mình chẳng thể bên nhau. Em không muốn mà anh cũng không muốn. Môi ướt.

Muốn buông xuôi. Mệt mỏi. Nhưng tại sao mình không thể đơn giản là nằm xuống? Mọi thứ cứ chảy ngược vào trong. Nghẹn.


Những lúc này, quanh chỗ tôi ngồi xin đừng có 1 ai. Bởi vì...MỊA, TỚ ĐANG BỊ VIÊM MŨI DỊ ỨNG!!! ...

http://www.influenzareport.com/ir/images/image40.jpg

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2007

Minh Tâm Bảo Giám

1. Năm tôi ngoài 20, mọi chuyện hoang mang, loay hoay và rã rời. Tình cờ xem cuốn "Minh Tâm Bảo Giám" của anh bạn, bắt gặp những dòng ngắn ngủi, trầm ngâm và sâu sắc. Tự tìm được cho mình chút tĩnh lặng.


2. Nhớ đâu thời HHT, không biết là Trang Hạ hay Tháng Giêng dẫn câu này hay phết "Các câu châm ngôn không làm tôi hiểu cuộc sống. Chính cuộc sống làm tôi hiểu các câu châm ngôn.".


3. Minh Tâm Bảo Giám:

- Khi nhân tất tự khi kỳ tâm - Dối người là dối mình.

- Văn nhân quá thất như văn phụ mẫu chi danh. Nhĩ khả đắc văn, khẩu bất khả đắc ngôn - Nghe lỗi người như nghe thấy tên cha mẹ: tai có thể nghe, miệng không thể nói.

- Quá nhi bất cải thị vị quá hĩ - Biết lỗi không sửa, mới thực có lỗi.

- Tiểu biện hại nghĩa. Tiểu ngôn phá đạo. - Bàn vặt hại nghĩa. Nói tủn mủn phá đạo.

- Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã - Nghe chuyện đầu đường xó chợ là bỏ đức của mình đi.

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2007

Tag-Erich Fromm

Tớ tách mấy bài về ERICH FROMM thành 1 tag mới. Viết bài này cho nó nổi lên.

Tags mới-việc đọc

Có lẽ Y360 không cho đặt quá nhiều bài viết trong 1 tag nên hậu quả là cái tag tớ cho là quan trọng nhất là "đọc" lại bị chìm mất tiêu. Tớ ghép nó vào tag mới này "việc đọc". Các bài viết trong tag "đọc" các bạn ấn vào link sau:

tag "đọc"

Đọc sách nhiều cũng tốt, nhưng mà đọc được cái gì mới là vấn đề. Mà nói rộng ra đọc cũng là cách nhìn, cách nghĩ mọi sự ở đời. Vậy nói đọc được cái gì đó hoàn toàn là rất khó khăn.

Một ngày đẹp trời




Hôm nay là 1 ngày đẹp trời so với quãng thời gian vừa rồi. Bầu trời như thế nào nhỉ? Cái bầu trời mà bạn thân thiết của tớ ngồi sau xe cứ lẩm nhẩm "trong xanh" mấy lị "trong sáng" mãi mà không tìm ra từ để tả í. Để tớ tả cho này: đó là một ngày nhiều mây, không, không phải mây, khắp thinh không giăng giăng một quầng xám nhạt. Nếu nhiều hơi nước hơn nữa sẽ gọi là mù sương. Gió heo may dè dặt chạm nhẹ vào da người. Người cứ xuôi đi theo dòng xe, thư thả và khoan khoái vì thinh không mật thiết đến không ngờ. Ngày rộng rãi quá, không biết đi về phía nào. Trong vô thức ta đi về phía mù sương. Ta tìm 1 gương nước soi bóng những ngày xưa cũ. Gương nước Tây Hồ.

...

Chiều về ghé hàng sách cũ đầu phố, mua được:

- 2 cuốn sách học ngoại ngữ
- Xác lập cơ sở cho đạo đức-FJ, bản xb năm 2001
- Những làng nghề truyền thống VN
- Quy hoạch du lịch
- Mông Phụ-một làng ở đồng bằng sông Hồng.

Cuốn cuối là 1 tài liệu rất hay để nghiên cứu về làng truyền thống VN (mà không bị sa vào mấy trò khái quát văn hoá học rất dấm dớ hiện nay) do Viện Đông Nam Á và Thế Giới Nam Đảo, LASEMA, Trung tâm QG Nghiên cứu KH Pháp-CNSR và Viện Dân Tộc Học, Trung tâm KHXHNVQG VN hợp tác trong chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học về các biến đổi làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện vào khoảng những năm 90-91.

Cuốn sách gồm 4 phần. Phần dẫn nhập "Một thoáng lịch sử" giới thiệu khái quát, đáng chú ý có bài viết "Từ tổng đến xã..." của Nguyễn Tùng, giới thiệu cấu trúc làng xã truyền thống xưa, sự biến đổi sau 1945 và tác động của nó gây ra sự đảo lộn về địa vực và hành chính trong khoảng 4 thập niên "tất cả các quyền lực-chính trị, kinh tế cho đến văn hoá, quân sự - đều nằm ở mức độ xã, thường có diện tích nhỏ hơn 1 tổng nhưng có dân số tương đương; các làng nằm bên trong xã (mới) mất đi hầu hết các cơ cấu và sinh hoạt truyền thống.". Nhưng Mông Phụ lại phát triển ngược lại.

Phần thứ 2: Xã hội, gồm tập hợp bài viết về tổ chức xã hội và chính trị của làng xã, gia đình và hệ thống thân tộc.

Phần 3 nghiên cứu về Không Gian. Và phần cuối về Tài nguyên và Khai thác tài nguyên.

Mông Phụ như 1 ngôi làng Việt cổ vùng bán sơn địa có vị trí so với châu thổ sông Hồng thì có thể ví như nằm ở đỉnh của 1 tam giác. Vùng này nổi tiếng về 2 vị vua là Phùng Hưng và Ngô Quyền, nhưng được nhắc đến nhiều nữa 1 phần vì sự tích đi sứ của Giang Văn Minh (1573-1638), gắn với câu đối "Đằng giang tự cổ huyết do hồng-Bạch Đằng từ trước huyết còn tươi" đối lại vế đối của vua Minh "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục-đồng trụ đến nay rêu đã phủ". Trong sách dẫn ra 1 luận điểm đáng chú ý cho là đây là sản phẩm kiểu giai thoại hình thành cùng kiểu với các cuộc tranh luận ăn nói với TQ (Mạc Đĩnh Chi, Trạng Lợn, Trạng Quỳnh...) có lẽ hình thành vào nửa đầu thế kỷ XIX. Luận chứng đưa ra là ĐVSKTT tuy có ghi việc đi sứ của GVM nhưng không nói đến cái chết của ông. Đại Việt Lịch triều Đăng Khoa Lục-ĐVLTĐKL, được soạn xong khoảng năm 1779, có nhắc đến cái chết nhưng lại không nói rõ nguyên do. Sự việc chỉ được ghi lại chính thức lần đầu trong Đại Nam nhất thống chí.

Chưa đọc cuốn Thần và Người đất Việt của TĐCT nên ko biết có liên quan gì không nhưng mình rất nghi cái hiện tượng phổ biến các Thành Hoàng là bộ tướng của Hai Bà cũng như 1 loạt các thần tích sự tích khác. Trước đây trong 1 bài viết của GS Hà Văn Tấn có cho thấy Văn bản học vẫn là 1 ngành còn mới ở VN hiện nay. Ngay như ĐVSKTT thì cũng sao đi sao lại, chỉnh lý qua tay bao nhiêu người. Cứ cho là dẫn đến tận thời Trần thì những sự việc chép về thời Lý đổ lên cũng rất đáng ngờ, ít nhất không thể tin hoàn toàn được. Hẳn là những việc thời Đinh-Lê khúc xạ qua lăng kính quyền lợi của Lý triều đã hoàn toàn không còn chính xác hay chính bản thân quyền lợi của họ Trần cũng sẽ ảnh hưởng đến việc ghi nhận hình ảnh họ Lý. Bản thân sử gia có thể nghiêm túc nhưng quan trọng là sử gia sử dụng tư liệu loại gì, huống hồ từ thời Lý Thái Tổ đến khi có cuốn sử được biết đến đầu tiên đã khoảng 200 năm rồi. Thời ngày nay, những chuyện 200 năm trước còn mơ hồ nữa là 800 năm trước đây!

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2007

Entry for October 13, 2007

Vân hà đương tri pháp bất giải thoát? Thiện nam tử, bỉ mạt thế chúng sanh tập Bồ đề giả, dĩ dĩ vi chứng vi tự thanh tịnh, do vị năng tận ngã tướng căn bản. Nhược phục hữu nhân tán thán bỉ pháp, tức sanh hoan hỷ, tiện dục tế độ. Nhược phục phỉ báng bỉ sở đắc giả, tiện sanh sân hận. Tắc tri ngã tướng kiên cố chấp trì, tiềm phục tạng thức, du hí chư căn tằng bất gián đoạn. Thiện nam tử, bỉ tu đạo giả, bất trừ ngã tướng, thị cố bất năng nhập thanh tịnh giác.

Làm sao biết được pháp không giải thoát? Này thiện nam, những chúng sanh đời sau tu đạo Bồ-đề, do đã chứng chút ít mà tự cho thanh tịnh nhưng vẫn chưa đoạn tận gốc ngã tướng. Nếu lại có người khen ngợi pháp của họ, họ liền sanh hoan hỷ, muốn độ người đó. Nếu lại chê bai chỗ sở đắc của họ, họ liền sanh sân hận, tức biết ngã tướng kiên cố chấp trì vẫn còn ẩn núp nơi tạng thức và luôn lai vãng ở các căn không gián đoạn. Này thiện nam, người tu kia không đoạn trừ được ngã tướng nên không nhập được tánh Viên giác thanh tịnh.

Kinh Viên Giác. Chương IX-Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng thưa hỏi.

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2007

Ai cho tao làm người bình thường

Bài viết cũ khiêng về.

1. 11g đêm:


- hí hí...
- What?
- hí híhí...
- ???
- Em chợt nghĩ ra là anh chơi toàn với người hâm hâm (???)...
- Chết, những ai nào?
- Thế bác A có hâm ko?
- Có.
- Chú B có hâm không?
- Có.
- Thằng C có hâm không?
- Có.
- Bạn D có hâm không?
- Có.
- hí hí, thế đã đúng chưa?
- hehe, vậy em có hâm không?
- Không.
- Thế thì anh cũng không hâm!
-------------


2. Jérome 24 tuổi, mặt non tơ, tác phong xuề xoà cùng mình xuống làng đi thực địa dự án. Cậu băn khoăn "đây không phải là buổi gặp chính thức vì tao chưa có số liệu hay ý kiến gì thì làm sao để xin họ cử 1 người đi cùng mình được???". Mình bảo ở VN với quy mô cấp xã, mọi cái vừa có tính chất chính thức vừa không chính thức. Mày cứ đi với tao xuống gặp họ, trình bày là dự án cần điều tra thêm, xin hỗ trợ cho 1 người, có gì tao nói thêm vào.

Áo phông-quần ngố-túi vải-dặn kỹ "tao quên mũ bảo hiểm, nếu gặp công an mày cứ kệ tao, tao bảo tao không hiểu gì hết là được"- vào uỷ ban xã, mọi người chào hỏi tíu tít vì lần trước về rồi "lần này có phiên dịch chứ lần trước cứ phải giở từ điển". Chú này cũng thân thiện nên bà con quý. Thế quái nào gặp ngay buổi họp HĐND nên trưa nghiễm nhiên được đi đánh chén theo suất hội nghị. Mình bảo ở đây ông chủ tịch oách nhất, mày phải nói chuyện với ổng, cuối buổi nhớ remerci bcp vào. Câu chuyện tập trung quanh việc "Bao nhiêu tuổi rồi?" "Có người yêu chưa?" "Thích con gái VN không?". Cậu chàng phát hiện ra người VN thường cộng thêm 1 tuổi vào tuổi Tây. Ghé tai mình bảo "Tao có chai vang, lần sau sẽ biếu ông chủ tịch". Bác chủ tịch nghe xong có vẻ hờ hững. Mình kể cậu này quê ở Bordeaux, vùng đấy sản xuất rất nhiều loại vang khác nhau. 1 lúc bác CT bảo "Mình uống rượu nặng quen rồi, chỉ thích cognac-naponeon ấy, vang thì hơi nhạt". Mình bảo đúng rồi, vang bọn nó chỉ dùng cho những dịp khách khí lịch sự khách sáo thôi. Jérome nghe thủng chuyện liền làm điệu bộ tả giới thiệu cho mọi người là vùng cognac nó ở đâu, ông napô là ông nào, làm được việc gì, dân Pháp rất biết ơn ông...

Bác chủ tịch kết luận "trăm phần trăm-anh cuốc lủi này uống êm lắm. Nhất."


Buổi chiều anh phó CT HĐND chở đi khắp xã. Cuối buổi J trịnh trọng xin được bày tỏ lòng cảm ơn vì anh đã giúp đỡ rất nhiều ngày hôm nay. Bác phó xúc động. Thuộc bài nhanh thế!


Hôm trước uống nước chè vỉa hè, Jérome bảo tao ở bển tao là người bình thường, sinh ra trong 1 gia đình trung lưu, ở tỉnh, là sinh viên nhưng sang đây tao cứ bị coi như người đặc biệt, tao không thích tẹo nào.
---------------


3. Ai cho tao làm người bình thường???

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2007

Tranh luận-Đối thoại-Phê bình

Muốn thực sự hiểu tư tưởng 1 con người tôi cho là phải dò dẫm trải nghiệm với người từ bước tấp tểnh ban sơ để nhiên hậu có thể cùng chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong lời nói cử chỉ bình phàm giản dị. Đọc tập sách mỏng được viết lúc đầu đời của BG, tôi thấy ông trở lên gần gũi và dễ đồng cảm hơn hình ảnh Người Điên kỳ vĩ nhiều.
---------------

Một vài nhận xét về Truyện Thuý Kiều-Bùi Giáng


Bản ngã cô Kiều.

Từ ngày các tập “Luận đề” được ra đời thì giới học sinh và giáo sư thật không hết lời cảm tạ. Những tập mỏng mỏng, tươi tắn, đậm đà, không từng phụ lòng mong đợi của một ai. Chúng tôi rất lấy làm sung sướng.

Riêng mấy luận đề của ông Nguyễn Sỹ Tế đã làm chúng tôi cảm động sâu xa.

Và chính vì lẽ đó, mà sơ ý một tí, ông càng để lại cho chúng tôi một chút hận khôn nguôi.

Chúng tôi mấy lần tự hỏi :”Là đàn em, khi thấy cái lỗi của người chị, có nên thưa lại cho chị hay ?”. Nhưng dần dà rồi em cũng quên khuấy đi mất và ngày qua tháng lại, riêng chỉ còn nhận thấy độc một vẻ diễm kiều của chị thôi.

Kịp đến khi người chị, chợt một buổi mai êm trời, lại một lần tô phấn lại, bước ra… tập”Luận đề về Nguyễn Du”, ông Tế vừa cho tái bản.

Xem lời giới thiệu ở trang đầu :”Tác giả có sửa chữa và thêm bớt nhiều” chúng tôi vồ vập ngay. Chúng tôi tin rằng điều chị làm phật ý chúng em ban đầu, ngày nay chị bằng lòng xí xóa. Và chúng tôi sung sướng : chị qủa rộng lượng trăm chiều. Vâng, chỉ vài lời điểm xuyết thêm vào lời lẽ xưa, và người chị đoan trang càng thêm lộng lẫy.

Nhưng nghẹn ngào, chúng tôi vẫn còn mang tí hận cũ. Riêng đề “Bản ngã cô Kiều” trong tập, không được ông sửa đổi lại. Kiều ra mắt khán giả lần thứ hai vẫn với cái cốt cách xưa : đam mê và nhu nhược, yếu hèn, không thật lòng, giả dối.

Sao ở mọi chốn khác ông Tế tỏ ra chu đáo là thế, mà riêng đây, ông nỡ cứ hẹp hòi.

Mười năm trước, ông Nguyễn Bách Khoa từng lớn tiếng “Hoàn cảnh xã hội chi phối con người”. Nhưng khi đem cái nguyên tắc ấy áp dụng trong việc phê phán nhân vật, bao lần ông đã không chịu xét cái cảnh ngộ nào đã trực tiếp chi phối tâm trạng con người nào. Ông lôi người ta ra giữa khoảng trống trơn, tuy xung quanh có núi sông bát ngát, và vũ trụ mịt mùng, nhưng đâu là nếp nhà tranh, lũy tre thưa, bờ giếng nước, tấm cửa sổ, chiếc chiếu, và áo quần ?

Rồi mặc tình ông tha hồ mổ xẻ, không một người thân thích nào được chứng kiến để nhỏ giọt lệ, mà kịp kêu lên một lời biện hộ minh oan.

Ông tàn nhẫn qúa. Mà chúng tôi tự lượng sức mình không đủ để bênh vực cho giai nhân. Chúng tôi đành quay mặt đi, không dám thấy, và chỉ xin phép yếu ớt khẽ kêu lên một tiếng xuýt xoa một đôi bận mà thôi - những bận nào mũi dao của ông tỏ ra tàn bạo qúa !

Kiều đam mê và nhu nhược, đành là thế. Nhưng đam mê theo một lối nào ? Và nhu nhược đến mức độ nào ? Đam mê có phải là trụy đọa ? Nhu nhược mà có đến nỗi đê hèn không ? Phút nào nàng nhu nhược? Bận nào nàng qủa thực đam mê?

Ngoài những lẽ viện đúng tất nhiên, đây một ít lời của ông Tế khác :”Theo Sở Khanh vì đam mê.Vì đam mê nên thiết tha với Thúc Sinh, Từ Hải. Vì nhu nhược nên e dè trước thái độ tha thiết của Kim lang. Xui Từ Hải ra hàng vì vừa lẩn thẩn. nhu nhược và đam mê”.

Ta thấy mấy hành động của Kiều kể trên - nhất là hành vi nghe theo Sở Khanh - nếu qủa thật thôi thúc bởi thói đam mê đa tình, liều lĩnh thì thật là nàng đã đê hèn, khốn đốn vô ngần. Chúng ta kinh ngạc. Con người vừa bán mình vì hiếu? Con người vừa toan kết liễu đời mình để thoát vòng ô nhục, con người ấy, giờ này, đã vội vì thói lẳng lơ đa tình, mà chay theo níu áo Sở Khanh hay sao ?

Nếu thật thế, thì không khí chốn bình khang qủa thật là biến đổi con người ! Và ảnh hưởng hoàn cảnhtrên cá nhân thật là tuyệt đối hòan toàn, lẹ làng, chớp nhoáng. Chỉ một lần bước qua ngưỡng cửa, chưa hề lăn lóc, mà nông nỗi đã thế sao ?

Có thể được không ? Nguyên cớ nào đã thực sự xui nên ? Hòan cảnh nào đã thực sự thôi thúc, giục giã ?

Đáp rằng : chính vì muốn thoát khỏi chỗ đê hèn, mà nàng đã có những hành động “mê muội” như trên. Nàng theo Sở Khanh không phải vì phục kẻ họa thơ như ý ông Tế. Chỉ vì một nỗi, trong bước đường cùng, túng thế, sẩy chân, vừa suýt rơi vào vũng ô trọc, vừa toan kết liễu đời mình. Nghĩ đến ngày mai mà rùng rợn, nhìn bốn bề Ngưng Bích mà hãi hùng, lúc sắp chết đuối, lẽ nào ai lại không hiểu hộ cho ? Ta sẵn sàng níu tấm ván mục kia mà.

Cái bàn tay đưa ra lúc ấy là bàn tay hiệp sĩ, anh hùng, hay vũ phu, tàn bạo, hay sát nhân, ta không cần biết. Chỉ biết lúc này không còn mối đe dọa nào ghê tởm bằng sừng sững bóng lầu xanh. Nếu thế mà cho là nhục, thì chịu làm đĩ hẳn phải là vinh quang?

Ngày sau khi đã thực sự chịu ê chề, sau bao lần “giật mình tỉnh rượu tàn canh”, Kiều sẽ gặp Thúc Sinh. Nàng có yêu Thúc Sinh thiết tha cả phách lẫn hồn, “yêu đến vỡ bờ” như ông Tế nói? Không. Nàng không yêu. Mà nói yêu cũng được. Nhưng yêu không phải vì thói đa tình, mà chỉ vì, với chàng, nàng đã hàm ân nghĩa nặng mà thôi.

Cái bàn tay “tế độ” của Sở Khanh trước đã xô nàng xuống vực thẳm, thì bây giờ, qủa đây, là bàn tay cứu vớt. Hòan lương một kiếp, nàng mang nợ trót đời. Nếu lúc khuyên chàng về xin phép vợ cả, nàng có thốt bao lời tha thiết đến lâm ly, nếu lúc chia tay nàng có ngừng chén, nếu lúc hợp tan nàng có nghẹn lời, thì vừng trăng ai xẻ làm đôi đêm hôm ấy xin hãy chứng giám cho lòng người : thiết tha mong mỏi sống ở một nơi trong sạch, phận dầu lẻ mọn, mà không vẩn đục đến linh hồn.

Nếu đam mê, thì đời nào cô đĩ chịu hoàn lương để làm thân lẻ mọn, chịu cái số kiếp chồng chung, mà ai kia, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã không tiếc lời bỡn cợt vì cảm thông :”chém cha cái kiếp lấy chồng chung…”

“Sắn bìm chút phận con con” mà vẫn mòn mỏi đợi chờ. Vì sao? Không. Nàng chỉ tỏ ra còn giữ nguyên vẹn, còn ý thức hoàn toàn về phẩm cách con người.

Rồi về sau, bị đưa đến cửa công, con người ấy cũng sẽ không nao núng trước hiện thân của pháp luật “ mặt sắt đen sì”

Đam mê chỉ xui người ta mờ mắt, mà quên phẩm cách đi. Ở đây, nàng tỏ ra nhận thức cảnh ngộ sáng suốt biết bao.

Rồi vì đam mê yêu Từ Hải ? Lại cũng như trường hợp Thúc Sinh. Ta trách nàng sao phải?

Còn nhu nhược ? Qủa có nhiều. Nhưng nhu nhược ở những điểm nào ? Ta có nên chủ quan và tuyệt đối qúa không ? Khuyên Từ Hải ra hàng, có gì mà cho là lẩn thẩn hay nhu nhược?

Nương thân vào Từ, nàng tin cậy, vững dạ không lúc nào bằng. Đành khuyên Từ ra hàng, rất có thể vì một tí nhu nhược trước cái ảo ảnh “nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha”.Mà trách nàng làm sao ! Đời nàng đã có một lần nào là nở nang mày mặt, là rỡ ràng mẹ cha đâu. Ta không thể buộc người đàn bà phải mang tâm hồn một triết nhân khắc kỷ Hy Lạp ngày xưa.

Tầm thường hơn, ta hãy nhìn nhận rằng có điều chắc là nàng đã nghe theo tiếng gọi của lòng nhân đạo một phần, nàng không đàng lòng được, nàng không thể ngồi đứng an vui được, khi nghĩ rằng mình xây riêng hạnh phúc mình trên đống xương vô định, Ta cảm thương cái chết của Từ, và sinh lòng giận nàng thật. Nhưng cũng nên nghĩ lại rằng cái hành tung khuấy nước chọc trời của người áo vải Việt Đông, dù sao cũng chẳng phải đã tuân theo một lý tưởng vị nước vị dân nào. Đúng như lời ông Tế nói trong một luận đề khác:”Việc làm của Từ Hải không phải việc mà người quân tử chịu làm”

Thì ta cũng không nên nghiêm khắc. Dù có lỗi đi nữa, nàng cũng đã chuộc tội mình bằng một giá đích đáng; là nạn nhân đau đớn , nàng đã tự kết liễu đời mình ở sông nước Tiền Đường.

Nếu có nói rằng lẩn thẩn, nhu nhược, tầm thường, là chỉ ở hành vi báo oán là một, ở thái độ nàng khi thị yến dưới màn Hồ Tôn Hiến là hai. Đây mới là chỗ ta thấy nàng tầm thường qúa đỗi. Đúng như lời ông Đào Duy Anh đã nói : Gíam Sinh, Sở Khanh, nào có tội lỗi gì, nhất là Sở Khanh và Ưng, Khuyển, chẳng qua chủ bảo sao hay vậy, nào có gì là gỡ gạc được chút chi, mà phải chịu sự phỉ báng của người đời.

Chẳng qua họ cũng như Kiều, nạn nhân của một trật tự xã hội. Nhưng, làm sao đối với Kiều, một tâm hồn con gái thời xưa, mà gái phương đông, hẳn phải giận hờn ai ghê lắm.

Còn thái độ nàng dưới màn Hồ Tôn Hiến, tưởng chỉ nhắc lại lời Đào tiên sinh là đủ. Tôi chỉ dám thưa thêm rằng : không một chỗ nào trong toàn tập, Nguyễn Du có thể nói đã để tài nghệ mình vượt qúa đoạn này. Không một nơi nào trong toàn tập, ta thấm thía hết cái tiếng “tân thanh của đoạn trường” bằng ở đây.

Nhiều nhà phê bình muốn rằng ở đây Kiều phải mắng vào mặt Hồ Tôn Hiến. Ta giận nên nói thế được rồi. Nhưng người trong cuộc đã trải qua bao nhiêu nỗi cay đắng ở đời, trước nỗi chua xót cuối cùng, chỉ còn mím miệng tê tái cười mà thôi.

Nàng chửi Hồ Tôn Hiến, thì đã dễ rồi. Nàng có sợ ai đâu. Cái chết còn không sợ nữa là. Nhưng cái khổ đã đến độ nào mà con người không còn lên cái tiếng chửi mắng thông thường ấy của chúng ta nữa. Ta giận, ta đập bàn, ta đỏ mặt, ta lên tíâng to, thì cái ấy đã thường.

Nhưng đây, cái cung đàn bạc mệnh phản chiếu một đời người có khác. Vâng, ông bảo tôi thị yến dưới màn. Ông bảo tôi vặn cung đàn bạc mệnh cho ông nghe, tôi xin dìu dặt vặn cho ông nghe. Ông bảo tôi lấy ông, tôi xin lấy. Ông lại gán tôi cho Thổ quan, tôi bằng lòng. Ông bảo tôi đừng tự tử, tôi xin lấy. Vì, than ôi, người đã hiểu giùm chưa? Từ nay, đi đâu, ở đâu, đứng ngồi đâu, mang một hình người hay bóng quỷ, ở địa ngục hay trần gian lòng tôi đã chết hẳn rồi. Tôi có nhảy xuống Tiền Đường là chỉ vì sợ trách, sao lại sai hẹn mà thôi. Kể ra thì không cần phải nhảy.

Còn nói đến cái điểm “ không thật lòng”của nàng, thì hà tất ta phải dài lời nói đến. Sau tấn thảm kịch không lời của sông Tiền Đường, trùng phùng còn có dịp, sao nàng lại thốt lời từ chối cha mẹ, không muốn về lại gia đình? Có qủa thật là nàng không thật lòng?

Không. Nàng chỉ tỏ ra nặng lòng trung nghĩa với Gíac Duyên.

Qua cuộc đời bảy nổi ba chìm, qua bao nhiêu sóng va gió đập, cái bến nào đem lại chút bình thản cho tâm tư, là chỉ cùng Gíac Duyên nàng tìm thấy “Lâm chuy buổi trước Tiền Đường buổi sau”

Vui biết bao lúc nhìn lại cha mẹ, hai em, người yêu, sau mười lăm năm xa cách. Bao nhiêu là nước mắt của kẻ ở người đi, tự buổi “gió giục mây vần”
Từ con lưu lạc quê người
Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm.
Tình rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây.
“Kiếp này ai lại còn cầm !” ấy thế mà không vì mảng vui sum họp với gia đình, mà chịu coi nhẹ nghĩa trùng sinh.
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi
Lời nói ấy của Kiều trong phút ấy, cái chỗ thắc mắc của nàng trong buổi trùng lai, thật là cảm động.

Thoát chốn ô trọc, thoát nanh vuốt cuộc đời, qua Tiền Đường mà còn sống lại được đến ngày hôm nay, còn nhìn được cha mẹ ở kiếp này, vì ai mà còn dịp “Trùng sinh ơn nặng bể trời..”

Một lời nói chứa chất biết bao là đau khổ đã chịu, là chung thủy của trọn một kiếp người.

Kiều gieo mình dưới gối mẹ, “khóc than mình kể sự mình đầu đuôi” và mọi người đã vội “quây nhau lạy trước Phật đài..Tái sinh trần tạ lòng người từ bi”.

Trước tấm lòng tri ân của đám người đau khổ ấy, chúng ta cảm động dường nào. Và thầm tạ Nguyễn Du chu đáo biết chừng nào?

Một lời nói, một chút ngần ngừ, nếu Nguyễn Du quên không để cho Kiều thốt, ta sẽ vì Nguyễn Du mà bực bội , vì Kiều mà bực tức biết bao nhiêu.

Rồi đến cái điểm “không thật lòng” của nàng khi từ chối duyên cầm sắt cùng Kim Trọng. “Từ chối duyên cầm sắt cùng Kim Trọng là không thật lòng, chỉ vì muốn giữ vẹn một chút trinh linh lạc”

Thành thật, ở đây, chúng tôi thấy ông Tế quá ư nghiêm khắc. Biết nói làm sao ! Chúng tôi chỉ xin nói rằng: Từ cái việc Thúy Vân lúc tàng tàng chén cúc đứng lên giãi bày, rồi đến Kim trọng tiếp lời, rồi ông bà Viên ngoại phụ họa theo, đừng nói chi đêm động phòng não nuột, mọi người tuy vì Kiều mà nài ép, nhưng sao ta vẫn thấy có gì như tàn nhẫn qúa, buộc con người đã chịu bao tủi nhục phải một lần nữa tủi cực chua xót nhắc lại đời mình :
Thiếp từ ngộ biến đến giờ…
Kiều thật lòng hay không thật lòng? Hà tất phải nói.

Tâm tư của con người sau mười lăm năm chìm nổi có còn là tâm tư rào rạt yêu thương của tuổi mười sáu nữa hay không? Chết ở sông Tiền Đường rồi sống lại, nhìn lại trần gian thì màu sắc đời người có còn là màu xanh tươi ngát của tuổi xuân không ? Nàng từ chối vì lẽ gì ? Vì mình, vì người, vì tình thương nhau cũ, xin đừng nỡ “vầy cái hoa tàn làm chi”
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau…

Còn đâu một nỗi buồn não nuột hơn không ?

Qua bao bước đoạn trường, bao lần nàng từng mong còn ngày tái hợp.
Nhưng ngày tái hợp đến qúa trễ tràng.
Mười lăm năm mới bây giờ là đây


Con người bỗng phát hỏang khi nhìn lại tấm thân mình. Tái hợp trong điều kiện như sao mà con người phải thốt :
Người yêu ta xấu với người,
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi…

Trên đây tôi chỉ gắng nêu lên những điểm nào đã làm cho độc giả vì mến yêu ông Tế mà phải giận ông nhất. Còn những điểm khác về bản ngã Kiều cần phải bàn cãi thư thả hơn, chúng tôi đâu dám tự tiện. Xin nhường lại các bậc đủ thẩm quyền nêu lại.

Tỉ như : Kiều gắn bó với Kim Trọng, ông cho là liều lĩnh, khuyên can chàng lúc sỗ sàng, ông cho là e dè. “ Hai bản năng trái nghịch trong một bản ngã mềm yếu đàn bà đã chi phối đời Kiều làm cho nàng khi tỉnh, khi say, muốn liều lĩnh sống theo xu hướng lòng, lại e dè sợ sệt đủ đường, yếu nhược còn cứ cố giãy dụa ra khỏi hòan cảnh trói buộc mà thành ra gặp hết nạn nọ đến tật kia”.

Tôi đã định kết thúc từ nãy. Nhưng sao đến đây tôi lại thẩn thẩn thấy chưa đành. Chắc rằng tôi sẽ còn xin phép nấn ná ở lại với Kiều một lần nữa. Xin độc giả lượng tình cho vậy.

Ở đây, tôi chỉ thấy trong thái độ Kiều một sự cố gắng vùng vẫy hòa giải đáng thương của con người phải sống trong khuôn khổ ngiêm ngặt của Khổng giáo, và chịu sự đàn áp của xã hội hẹp hòi… và nói cho đúng ra, thì cả cái xã hội ấy cũng cùng chịu chung một cảnh ngộ éo le chung cho cả bọn mà thôi. Nào há chỉ riêng Kiều e dè, hay nhu nhược, hay liều lĩnh, lẩn thẩn hay đam mê, hay ấy chính đáng thương vô hạn! Còn bao nhiêu kẻ nữa, ở mọi nơi, mọi chốn suốt xưa nay. Là tiểu nhân, anh hùng, hay triết nhân khắc kỉ, cũng không thoát khỏi những hệ lụy chung cho kiếp người.

Lẽ ra, đã cùng một hội một thuyền, thì ta cũng nên rộng rãi một tí với Kiều, một nhân vật sống của một nghệ sĩ siêu việt trong thiên tài. Sao ta không chịu rộng rãi?

Tình cảm của con người, yêu thương của con người – tôi nói tình yêu chân thành tha thiết nhất - vẫn không được các đạo giáo xưa nay khuyến khích bày giãi một lần nào. Nói thế ta không phũ phàng chê trách nền đạo giáo nào cả. Mọi nền đạo giáo đều có lí do tồn tại, và không nền đạo đức nào có thể chiều theo mọi sắc thái riêng của tâm hồn mọi người.

Tôi chỉ muốn nói rằng, khi ta căn cứ trên một nguyên tắc nào để phê phán một kẻ nào, ta nên thận trọng, đừng để cho nguyên tắc trở thành máy móc, và một nền đạo đức “sống”, lẽ ra phải vừa kìm hãm người vừa nâng đỡ người, đừng trở thành công cụ đày đọa người, tra tấn người một cách vô ích làm chi.

Ta nên bình tĩnh nhìn nhận rằng sống giữa xã hội mà con người còn mang nặng một qủa tim người thì thế tất không làm sao tránh khỏi ray rứt, vì bao bận trong lương tâm mình đã diễn ra tấn tuồng tranh chấp, bao lần xô xát, va chạm, và vấp váp, mấy lần mâu thuẫn, một chút điều hoà…

Cái chút điều hoà mong manh mà nặng trĩu ý nghĩa ấy, nhân vật của Đoạn trường tân thanh đã thực hiện như thế nào, qua tâm hồn của thi sĩ Tố Như?

Nếu tâm sự của Kiều không được thấu thì ta e rằng đồng thời giá trị của Đoạn trường tân thanh cũng do đó mà tổn thương rất nhiều. Gía trị văn chương của nó khi ấy sẽ không thành vấn đề. Vì là văn chương hư ngụy. Và cái gía trị về tư tưởng, và cái gía trị nhân bản của nó sẽ qủa là “kém” như lồi ông Tế nói trong một luận đề khác.

Chúng ta tự hỏi : “Một áng văn chương phản ánh một đời sống nào, giữa xã hội nào, và lạ lùng thay, cái sức sống của nó bắt nguồn ở đâu mà nó chi phối và ngập tràn sâu xa vào đời sống tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam trong một thế kỉ rưỡi, đã đưa hẳn đời sống tình cảm của dân tộc lên một mức độ chưa từng có tự cổ lai, một áng văn chương như thế thì giá trị nhân bản của nó như thế nào ?”. Đúng như lời ông Tế nói : “giá trị tư tưởng của nó không đều”. Nhưng không vì thế mà giá trị nhân bản của nó kém. Nếu trước sau giá trị tư tưởng của nó phải đều như một hệ thống triết học chặt chẽ theo lối ta nghĩ, thì có lẽ nó đã không là văn chương. Nó sẽ không mang đề mục “Đoạn trường tân thanh”. Nhà khoa học, bác sĩ y khoa sẽ cho nó một cái tên khác.

Nhưng chính cái chỗ mâu thuẫn, cái chỗ tầm thường trong quan niệm, trong tư tuởng, ấy là giá trị bất diệt trong tác phẩm Tố Như. Người đã cố tình gảy sai cung lỗi nhịp bản đàn để tách rời rạng rỡ bản nhạc buồn thương của con người ra biệt khỏi bản hòa âm muôn thuở giạt dáo của vũ trụ.

Cái ý nghĩa nhân bản của nó là ở đó. Nó phản ánh một cách nhiệm màu đời sống của con người giữa xã hội, một xã hội như sao mà quyền sống của con người luôn bị chà đạp, và người luôn luôn phải điều hoà bằng mọi cách muôn mặt của đời tình cảm mình; âm thầm, lặng lẽ, một mình mình biết, một mình mình hay.

Cái chỗ siêu việt của Nghuyễn Du là ở đó. Các triết nhân, thánh hiền, các nhà chính trị, sỡ dĩ họ cảm động ta và lôi cuốn ta, tuy thường họ chỉ nói những điều ta từng đã biết, chỉ vì họ đã vừa đau khổ vừa nói. Và đau khổ một cách tầm thường mà thôi.

Ai đã khóc một cách giản dị bằng thánh Gandhi, lúc ở Anh về nhìn lại Ấn Độ? Lúc tự ý đày mình ở lại Phi châu? Ai đã khởi đầu một phong trào dân tộc vĩ đại hơn trong kịch sử loài người? Ấy đấy. Cũng chính kẻ ấy, xưa kia, đã mờ mắt cho lệ chan hòa, viết thư khóc bạn canh khuya.

Nhà khoa học đóng chặt cửa phòng thí nghiệm, cố tách biệt mình với cuộc sống, có vì thế mà ta dám nói rằng ta yêu đời hơn họ hay không? Mà yêu theo nghĩa thông thường thôi đấy.

Con người thông minh ra và cao thượng ra vì có một trái tim biết thổn thức một cách tầm thường, đôi bận ngỡ ngàng, mấy lần vụng dại. Một giọt nước mắt khóc mẹ, khóc em, khóc bạn bè, láng giềng quen thuộc, một niềm thương xót còn sót trong nguôi lãng, một chút yêu vì còn sót lại trong khinh khi, chính chúng giúp ta hiểu nỗi lầm than của xã hội hơn mấy trăm lời nói hùng biện của triết nhân, đã bị ta bóp chết khô trong hệ thống.

Tuy bao lần qủa tim uyển chuyển đã gây nên bao nhục nhã cho người, nhưng cũng chính trong cái nhục, con người biết nhục đã tìm thấy ý nghĩa của cái vinh.Và bóp nát nó đi, cái chết của nó sẽ gây nhiều hậu qủa thảm hại không kường sao hết được. Con người sẽ phản lại cuộc sống ngay, khi chỉ còn bấu víu vào lý trí khô khan để sống.

Gía trị truyện Kiều – sao phải dùng tiếng giá trị ? – xây dựng trên mấy nét uyển chuyển tầm thường của một qủa tim, tệ hơn, một qủa tim đàn bà, có vì thế mà giá trị nhân bản của nó kém đi không? Không. Mãi mãi nó sẽ còn là tác phẩm độc nhất trong văn học Việt Nam cho thấy cái sức sống của con người. Không một tác phẩm nào làm ta khóc nhiều bằng, mà cũng không một tác phẩm nào giúp dân Việt hy vọng, tin tưởng nhiều bằng ở linh hồn nước Vịêt ngàn năm.

Con người nghệ sĩ kì quặc nơi Nguyễn Du, ta không làm sao nói được. Một bậc thánh hiền sẽ lặng lẽ cúi đầu trước câu chuyện tầm thường ấy của một người đàn bà tầm thường mà một thi nhân đã nghẹn ngào kể lể lại.Câu chuyện riêng của cô gái giang hồ bỗng đã mang nặng nỗi đau thương muôn đời của con người trước cuộc sống.

Kiều đã cảm động ta đến cùng vì lẽ ấy. Chúng ta khóc Kiều không phải chỉ vì thương cho thân thế một cô gái giang hồ thôi đâu. Cũng giống Chu Mạnh Trinh khóc Kiều, và mơ hão một giấc mơ tao phùng cùng người quốc sắc.

Không. Tác phẩm của Tố Như không phải chỉ gợi được chừng ấy nỗi niềm xót xa thương tiếc luẩn quẩn trong vòng cá nhân hẹp hòi. Xin đừng ai nỡ đem so sánh Kiều với bất kì một cuốn tỉêu thuyết nào khác của Âu Á, cổ kim. Gĩưa Kiều và “Tây sương kí” của Vương Thực Phủ, hay “Romeo và Juliette” của Shakespeare, hay “Verther” của Goethe, còn một khoảng cách biệt rất xa. Kiều mang một sức sống huyền diệu hơn nhìêu để làm tròn một sứ mệnh thiêng liêng hơn nhiều.

Người ta cho rằng vì giá trị tư tưởng của nó kém, ko đều nên nó không được liệt vào hàng những áng văn chương kiệt tác của thế giới. Người ta cho rằng triết lí truyện Kiều là một hỗn hợp ép uổng của ba ngành triết học: Phật, Khổng, Lão. Nhưng cũng chính chỗ ép uổng đó mà ngày nay cái tên Khổng Tử, Lão Trang, Thích Ca còn được hậu thế nhớ đến; Nguyễn Du đã làm sống lại họ trong tác phẩm độc đáo của mình. Thiên tài Nguyễn Du đã điều hòa ba ngành triết học Á đông một cách ép uổng, mà huyền diệu vô song. Lẽ Chân, lẽ Thiện, lẽ Mỹ, dường như một lần được tương phùng trong chỉ một tác phẩm mà thôi.

Nếu các nhà bác học uyên thâm có nhận thấy rằng trong cuộc gặp gỡ này, khuôn mặt Khổng Tử có méo mó đi, vì bị lão Trang siết hôn qúa mạnh, nếu Thích Ca lắc đầu ngậm ngùi cho số phận mình bị kết chặt vào số phận Khổng Tử, Lão Trang, ko tùy ý thỏa thuận một mảy may, thì cũng chính vì lẽ đó, mà nghìn năm cách biệt, khuôn mặt họ sẽ được hậu thế nhìn nhận ra, vì đã được “ tô điểm” lại, và điều hòa màu sắc hợp với lòng người hơn, dưới cây bút huyền diệu của nghệ sĩ bên bờ Lam giang đã chịu lăn lóc, ê chề trong cuộc sống.

Nếu nãy giờ độc giả nhận thấy rằng giọng tôi có sôi nổi qúa, đến có thể bóp méo ý ông Tế, thì xin hãy lượng tình cho. Và hiểu rằng không phải vì tôi hờn giận ông Tế. Ai đọc hết mấy tập luận đề của ông về Nguyễn Du không làm sao không kính mến ông. Và phải đồng thanh nhìn nhận rằng ông có nhiều quan điểm sáng suốt rất cảm động trong một lời văn thanh tao uyển chuyển lạ thường.

Sở dĩ tôi qúa sôi nổi chỉ vì lẽ mười mấy năm nay âm thầm tấm tức. Mười mấy năm ròng tôi khổ vì lời buộc tội đanh thép của ông Nguyễn Bách Khoa. Quyển sách của ông ra đời vừa lúc tôi 16 tuổi. Trong tâm hồn từ đó cứ hoang mang mãi, cứ như sôi dậy một niềm gì canh cánh, mà bứt rứt không tìm gỡ cho ra…Rồi sau này, trong những ngày ngửa nghiêng cùng sông núi, không hiểu có điều gì xui tôi mấy bận trở về tìm nơi nương náu trong tác phẩm Tố Như. Nhưng cứ mỗi lần giở ra là mấy lần tự thẹn, tự trách mình ủy mị, yếu hèn. Sao? Ta sống giữa một thời đại như thác ngàn đang đổ, lẽ nào ta lẩn thẩn ngậm ngùi cùng trăng bóng xế, hay hương hoa thu tàn ?

Nhưng ngày nay, tôi tin rằng tác phẩm của Nguyễn Du là kết tinh duy nhất của những yếu tố thuần túy chủng tộc trong một thiên tài, mà dẫu với giá đắt bao nhiêu cũng phải bảo toàn cho trọn vẹn. Kiều là kết qủa của một giờ gặp gỡ duy nhất trong lịch sử chúng ta giữa nền văn hóa dân tộc với sức tiến triển của thiên tài cá nhân. Cái tâm sự Tố Như đã hun đúc trong bao nhiêu ngày trên dải đất giữa Hồng Lĩnh Nam Giang, và nung nấu suốt mấy mùa trong lòng đau thương của thế kỉ. Người đã sống giữa một thời đại đẫm máu trong loạn ly, chứng kiến bao đổ nát, lìa tan, ở mọi mặt của cuộc sống, thì làm sao không ước mơ, không mộng tưởng một lần kí thác tâm sự mình, và tâm sự xã hội mình vào một tác phẩm kể một cuộc tình duyên ngang trái theo trình hạn, những mối ngậm ngùi thương tiếc.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…

Cái nỗi ngùi thương dằng dặc suốt tác phẩm. Ngay tự trang đầu đã lai láng đến vô biên. Thời gian đi, nước dưới cầu cứ chảy, trong đời tình cảm của mình con người cố níu lại chút gì giữ gìn cho vĩnh cửu giữa mọi di biến tang thương. Nằm trên nấm mồ vùi chôn bao kỉ niệm người sẽ khóc rất nhiều, hiểu nghĩa của đời hơn, thương cảm cho đời hơn, và tìm ra một niềm an ủi trong nỗi thiết tha nguyện cầu cho nhân thế. Nơi lòng mình, trong chỗ “thiện tâm” con người bắt gặp cái ý nghĩa “sống” giữa điêu tàn.

Ta đọc Kiều bao bận. Ta tự hỏi bao lần “ Vì sao câu chuyện tầm thường của đời sống cô gái giang hồ lại có một sức truyền cảm thương tâm mà an ủi lạ lùng?” Và ngày nay, ta hiểu Nguyễn Du đã trao hết đời sống mình cho nhân vật. Tâm sự Kiều là tâm sự Tố Như. Và tâm sự Tố Như là tâm sự con người thế kỉ XIX. Nó mang nỗi đau đớn chung của con người nghìn thuở, và gần nhất con người của thời đại chúng ta.

Tôi tin rằng có một sự hòa hợp sâu xa giữa tác phẩm ấy, và sự đau khổ ngày nay giữa bầu tâm sự Tố Như “ người đã từng ấp ủ nỗi khổ tâm trung quân ái quốc, người đã từng nung nấu mối sầu tư xã hội nhân gian” và sự chấn động ngày nay của dân tộc giữa muôn vạn tiếng kêu than trong bao nhiêu tấn bi kịch tiếp diễn rõ rệt hay âm thầm vì một mối tương xung nan giải.

Đếm là Diệu Tưởng/Đo là Nghi Tâm




Tôi vốn không quen không biết bác 7x. Chỉ là duyên ngẫu nhĩ mà được xem mấy cái ảnh Người Điên ở Myanmar, ấn tượng với cái DUYÊN HỢP của bác nên lúc trước khi xin bác mấy cái ảnh là vốn định dùng cho bài viết như thế này. Nay xin đề tặng bác.
------------



Trần gian nay có lối

Đi về chẳng nguồn cơn





2 câu trên tự nhiên hiện ra trong óc khi nghĩ về BG sáng nay. Vốn dự định tìm đọc những kiến giải của ông về Thơ Ca 1 chút và làm rõ cái hiểu của mình về Thơ rồi mới khởi sự viết đôi dòng nhưng như vậy thì cứ lần khân mãi không bắt đầu được. Về Thơ mình có 1 liên hệ với cơ chế của tâm trí và vấn đề nhịp điệu-nhịp điệu chứ không phải là nhạc điệu hay vần điệu. Nghĩ đến đây mình nhớ đến câu chuyện trong "Một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan" của BG kể lúc còn trẻ. Chàng tuổi trẻ trong buổi chiều đang xuống, đi một mình trên con đường sơn cước về phía xóm nghèo đang lên khói lam chiều. Dừng chân trước cổng nhà người chị gái, lắng nghe con trẻ đang vang giọng ngân nga đọc thơ BHTQ. Chàng hốt nhiên tỉnh mộng chợt nhận ra được cái hay của Thơ Ca. Trước chàng vẫn nghĩ rằng Thơ của BHTQ rằng hay thì thật là hay nhưng nghe ra trau chuốt quá không thật, không cận nhân tình. Nhưng ngay khi giọng trẻ đọc vang lên Lời thơ thì chàng hiểu-Thơ vốn dĩ phải được đọc lên...Mình lại nhớ đến lời bình của Hoài Thanh về bài "Hương Thời Gian" của Đoàn Phú Tứ-tưởng chừng thi nhân có thể đọc bài thơ của mình trước 1 đám đông mà không hề mất đi vẻ thanh tao duyên dáng ý nhị riêng tư của bài thơ. Và mình liên tưởng rất buồn cười rằng những bạn "làm thơ" cách tân mới đây đem những "bắc cặc, bú dái" vào thơ rất có thể các bạn chưa nghĩ ra sự tình này: rằng thơ vốn cần phải đọc to lên chứ không phải để nhìn. Các bạn trẻ, các bạn hãy đọc to lên nhé, trước đám đông càng tốt, như vậy dễ cảm thụ hơn.


Thường thì mọi người thích viết kiểu lập ngôn, trung tính phi bỉ phi ngã và coi đó như là một tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của những gì mình phát biểu. Mình thì không được thế, mình luôn ý thức và thích kể lể cà kê rằng "tôi vốn thế này, nhân sự nhân việc này mà tôi thấy thế này thế kia". Nghĩ về BG mình cũng sẽ viết như thế thôi. Hôm nay chỉ ghi mấy dòng khỏi quên.

Có 2 đoạn thơ ngắn của BG mà rất nhiều người thích. Một là 2 câu

"Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau"

và 2 là bài"

"Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên. Rằng một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm"

Người nào nhiều tình cảm thì thường thích 2 câu trên, người nào thiên về suy tưởng thì thích đoạn dưới. Ở đây mình nói trước về 2 câu đầu trên kia.

Nguyên lai đây là 2 câu thơ trong 1 bài thơ hoàn chỉnh trong tập Mưa nguồn thì phải. Nhưng mọi người thường chỉ nhớ 2 câu này và lặp lại hồn nhiên mà nhiều khi chỉ vì nó bắt đầu bằng "xin chào" và "con đường". Có người còn bẻ "miên trường" thì có nghĩa gì đâu? Và cái bắt bẻ này chia rẽ mọi sự theo 2 ngả. Nếu bảo "miên trường" là Hán hay Hán Việt thì nó đều vô nghĩa, có thể nó là từ mới của BG tạo ra-vậy thì không phải là điều hay trong Thơ ca.

Ngả kia thì không kể đến điều này. Họ chỉ cần mang máng rằng "miên trường" là cái miên man dằng dặc mà thôi. Tư tưởng, hình ảnh và cảm xúc lướt đi không dấu vết, không định kiến. Và 2 câu thơ như 1 con nước mát vừa chảy qua kẽ tay-trọn vẹn mà không đầy đủ. Liên tưởng của mình cũng đơn giản: chỉ là 2 người đi ngược chiều nhau trên con đường độc đạo thăm thẳm; trong 1 ngõ hẹp họ gặp nhau. Họ đi ngang qua nhau và mỉm cười hồ hởi thân tình. Cái cười dìu dịu như đã gạn lọc đi nhiều đầy vơi. Ngang qua rồi đi tiếp. Mang mang. Cái hàm ý rằng nhân sinh thì mang mang thiên cổ sầu, miên man dằng dặc không biết đầu cuối ra răng, níu kéo ra răng; rằng sống như là bước đi, phải đi trên con đường rằng ngay cả cái chết cũng không đáng kể thì nhiều người cảm nhận được. Nhưng cái oái oăm của hiện tồn khi nhảy qua dòng suối thì ít người cảm nhận đủ. Đó là khi người ta đã ngậm cười mà lựa chọn mà nuôi dưỡng cái màu mắt môi Mùa Xuân ở phía trước như là cái cũng đang ngang qua-ngang qua chứ không phải là cái ảo ảnh mơ hồ giả dối của Hy Vọng (xin bạn coi thêm tiểu luận về khổ ải của Syphus của Anbe Camuy-về cái lẽ sống của người không Hy Vọng và không Chết). Đây không phải là hoán đổi hay đối lập. Ở đây là sự đồng nhất và đồng thời trong lúc đó-bây giờ và ở đây.

Nhưng lẽ đời thăm thẳm khôn khuây. 1 ông Syphus hì hục lăn đá dưới Âm Ti thì còn đẹp, vậy chứ 2 ông, 3 ông Syphus-Phusys thì phải ăn nói ra răng, chào hỏi ra răng???















Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2007

Ông không đi.




Báo Vietnamnet dạo này như báo tường của tổ hưu ấy nhỉ.

KTS Nguyễn Trực Luyện: Nhà QH phải xứng tầm VN hội nhập






Chuyện nhà Quốc Hội không nên xây ở vị trí cũ thì nhiều người nhiều giới lên tiếng rồi. Mấy bác hải ngoại còn nặng lời mắng là chúng nó đào mả tổ...bala. Chết, ai lại thế. Mình cứ mắng đào mả tổ chúng nó thì được chứ mắng thế hoá ra nó đào mả tổ mình thật à. Thật ra có 2 điều mà sẽ chả bao giờ lên báo chí (chỉ lên blog thôi) nhưng nó giải thích khá đơn giản và rõ ràng cho việc xây hay không xây. Thứ nhất là những người quan trọng làm những việc hệ trọng quốc gia. Việc hệ trọng quốc gia quyết rồi mà quyết lại chẳng hoá ra là mình ngu hơn mấy cụ hưu à??? KHÔNG BAO GIỜ. Thứ hai, cái này thuộc âm phần, từ lâu mọi người thường thắc mắc tại sao không di dời các khối cơ quan nhà nước ra khỏi khu thành cổ để giảm tải sức ép đô thị hoá cho khu trung tâm cũ nhưng không bao giờ thấy việc này nhúc nhích được tí nào là tại sao? Đơn giản là bởi vì khu vực quận Ba Đình được coi là nơi CÓ LONG MẠCH của thủ đô ta ngàn năm văn hiến không mê tín dị đoan. Chẳng cơ quan nào muốn đi cả. Nhưng cũng chẳng ai nói ra cái lý do đấy cả. Nào phải mình dân ta đâu, còn cả các bạn Tây kia nữa cũng thế thôi. Các bạn xây thủ phủ Đông Dương ở đây, di di xoá xoá mấy cái núi đất, vạch trục mới xoá xoá bôi bôi cái trục thần đạo cũ của thành Hà nội, nhiều người bảo các bạn cũng noi gương Cao Biền đại ca trấn yểm annam ta thôi. Tóm lại, ÔNG KHÔNG ĐI ĐÂU HẾT, khi nào ông về hưu hẵng hay. Bây giờ phải làm sao? Phải giàn đều 2 mặt trận: mặt dương ta tạo dư luận, gửi huyết tâm thư; nhưng mặt âm thì nên bố trí 1 bộ phận ưu tú đi liên lạc với hệ thống khoảng 3-4 thày đang uy tín nhất hiện nay, hối lộ, đe doạ, dụ dỗ...để các thày phán đỡ cho 1 ít. Đảm bảo hiệu quả hơn cả ngàn ý kiến! Có thể tham khảo vụ mật phục kinh điển của bác Thanh niên năm xưa đánh chú TDTT. Ta gài thày bên Tàu rồi ta bắn tin bên ta. Chắc là ổn.

Thôi kể tích xưa chuyện cũ một tý. Nguyên lai bọn xâm lược nào cũng giống nhau, muốn cai trị lâu dài thì đều tính chuyện đồng hoá dân bản địa. Mà việc đầu tiên của đồng hoá là xoá nhoà dấu vết của truyền thống, xoá nhoà đi trí nhớ của cộng đồng. Không trí nhớ, không truyền thống thì sẽ rất tiện. Các bạn Pháp sau khi được khu nhượng địa (ở khu Tràng Tiền, Lý Thường Kiệt ngày nay), một mặt nhập nhèm địa giới (không bao giờ tìm thấy bản đồ bàn giao mốc thực địa) một mặt thiết lập hệ công trình có tính biểu trưng cho hệ quyền lực mới. Các công trình thường được chọn vị trí thay cho những biểu tượng cũ. Chùa Báo Ân bên hồ Lục Thuỷ thì phá đi giao cho Hội Truyền Giáo xây trụ sở, xây nhà thờ. Bây giờ Hội Truyền Giáo Mới đòi lại thì các bạn cái lọ cái chai lý do lý trấu nhùng nhằng làm thanh thiếu niên thủ đô mãi không có được cái khu vui chơi ra hồn, cứ bỏ hoang hoài vậy à? Mở đường phá chùa Kim Liên thì cũng tệ, tệ nữa là mở đường cắt trục thần đạo của Văn Miếu, hồ Văn đảo Ngọc thành ra như cái thủ cấp bị chặt văng ra mồm há hốc (có khi do vậy mà bây giờ mới phát ra phong trào Mở Miệng). Tệ nữa là xoá bỏ tôn nghiêm cũ, mở đường (Điện Biên Phủ) cắt xéo trục xưa, biến Cột Cờ thành cái tiểu cảnh bên đường. Cổ thành thêm 1 vết sẹo lớn trên mặt trông thật ngầu. Vậy mới nói thực dân thâm hiểm. Để con cháu bây giờ tranh nhau chia miếng đất ông bà để cơi thêm cái toa lét khép kín. Để bây giờ có lần mình trông thấy 1 thằng hồn nhiên đứng đái dưới chân Cột Cờ, ngay cạnh mấy ông Ầm oai danh xưa-dòng người (nước ngoài) cứ đi (vào bảo tàng), kệ chó (má) cứ...đái trong 1 ngày mưa gió lất phất. Nó đi ra từ Cafe Highland.

(viết xong đọc lại thấy mình đanh đá phết)


Thứ Ba, 2 tháng 10, 2007

Bài viết cũ




Entry for September 29, 2007

Buồn ngủ rồi, viết nốt cái này thôi. Chả là hôm nay 2 anh em, mình với bạn Bình vôi đi thăm làng nghề Kiêu Kỵ ở bên Gia Lâm (gần Bát Tràng). Làng này có nghề làm quỳ (dùng cho nạm giát vàng bạc sơn khảm...) và nghề làm đồ da. Vào 1 xưởng nhỏ có 2 chú em 19 đang cởi trần quai búa nện thiếc và 1 em gái cũng 19 đang chia thành phẩm trong buồng. Chết cười vì chú Bình vôi liều quá xá. Chú hồn nhiên chào 2 bạn giai rồi chui tọt vào buồng phỏng vấn em gái hơn nửa tiếng trong khi bỏ mặc mình ở ngoài cầm cự với 2 bạn giai cởi trần quai búa. Trộm vía, nó mà nổi máu giai làng nó quai cho chú giai phố kia 1 phát thì có mà cả làng Sơn Đồng (Hà Tây, chuyên về sơn phủ tượng...) cứ gọi là dùng cả năm chả hết nguyên liệu!!!


Ra về mình cứ băn khoăn suốt: tại sao đẹp giai, lịch sự và tận tình chu đáo lại lãng mạn như Bình vôi mà lại chưa chịu yêu ai (hay chưa ai yêu) như thế mãi vậy??? Thắc mắc chán mình mới nghĩ: thế Bình vôi hợp với tuýp nào nhỉ? Nghĩ mãi nhớ đến cô bạn thân của mình thấy giống phết. Tưởng tượng thế này: giả dụ có lúc nào mà 2 bạn này ngồi chơi nói chuyện với nhau mà chả may đài hay ti vi nó phát quốc ca...thì có khi 2 bạn này sẽ bật dậy đứng nghiêm mất

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2007

Lên tận đầu nguồn con nước

Tôi đọc một bài viết trên blog của bạn Phá :
"
Những giai đoạn của “tình cảm và lương tâm công chúng” sau một sự kiện bi thảm" - và nhận thấy đằng sau những nhận xét khá bao quát cho 1 hiện tượng-mà mỗi chúng ta đều có thể tự kiểm chứng được-đã chạm đến một câu hỏi rất khó cho mỗi người "Vậy với chính mình, chúng ta phải làm gì-trước những việc như vậy?". Mặc dầu tác giả chỉ tự hạn chế ở việc khảo sát 1 hiện tượng thuộc phạm trù hạ ý thức như 1 cái nhìn dửng dưng để hiểu và để vượt qua nhưng cũng đã đủ để thấy cái nhu cầu hiển nhiên của câu hỏi khó khăn trên kia. Bạn Phá đã khó nhọc để diễn đạt điều đó từ những dòng đầu tiên. Nói không quan tâm cũng không phải là không quan tâm. Nói không hưởng ứng với đám đông cũng không phải là không bị ảnh hưởng. Có lẽ cũng như đa số, dù là phản ứng như thế nào thì việc chúng ta viết ra cũng như là một nhu cầu thôi thúc từ bên trong, để giải phóng cho chính tâm trí của mình-trước một cái gì đó vừa bị chạm đến. Đây cũng là điểm tôi muốn bổ sung vào trong nhận xét của bạn Phá: điều đầu tiên, cái xảy ra ở giai đoạn 1 mà bạn đề cập là "kinh hoàng và sốc" theo tôi không hẳn chính xác. Nó, cái đầu tiên hiện diện trong tâm trí chúng ta hẳn là 1 cái gì đó như "bàng hoàng", một thứ tình thương vô ngã. Một khi có tác động của sự đối diện với sự hiện hữu (dù trong chốc lát) của một sinh tồn khác, ta không thể dửng dưng.


Tôi cũng đã thử đặt câu hỏi với bạn về câu trả lời cho việc nhìn vào chính mình kia nhưng thực ra là hỏi chơi thôi-một kiểu bẫy tuy là chả bẫy được :) -vì ai cũng hiểu câu hỏi đó nếu đeo đuổi đến tận cùng thì có lẽ nó là 1 cuộc truy đuổi vô tận. Vô tận vì khi chúng ta muốn vượt lên, thoát ra khỏi những bế tắc, mập mờ của đạo đức học hình thức là để vươn về phía của việc triển khai viên mãn cái lòng không nỡ mà ta vừa cảm nhận được trước sự cùng khốn của người khác tới toàn bộ kinh nghiệm sống của chúng ta.


Tất nhiên, câu chuyện chẳng vì như thế mà sáng tỏ hơn chút nào nếu đối chiếu với cái hệ quy chiếu mà ta vừa gợi lên ở trên kia. Trong hệ quy chiếu này, con người đi tìm một kinh nghiệm sống toàn thể, đi tìm một cái cơ sở vững chắc để không bao giờ còn hồ nghi khi hành động, để lý lẽ không phải là trò chơi chữ nguỵ tạo. Mọi chuyện mới chỉ là khởi đầu và những điều nhận xét trên đây của tôi chỉ là rút ra từ chương đầu của tiểu luận triết học "Xác lập cơ sở cho đạo đức" của Francois Jullien mà thôi. Bạn nào hứng thú có thể tham khảo để tự mình tìm lấy 1 chính kiến trước những cuộc tranh luận rối rắm về đạo đức thật và đạo đức giả đang um sùm đâu đó trên mạng. Ở đó, FJ có chỉ ra rằng: trong các chủ đề được tranh cãi quá nhiều của đạo đức, chỉ có kinh nghiệm là bảo đảm cuối cùng và là căn cứ để sàng lọc các lý lẽ. Nó là hòn đá thử vàng.


"Mạnh tử đưa ra 1 tình thế điển hình về lòng không nỡ: thấy 1 đứa trẻ con sắp té xuống giếng, ai cũng động lòng kinh sợ, thương xót, chạy bổ đến cứu đứa bé. Mà họ hành động như vậy "không phải vì tình giao kết với cha mẹ đứa trẻ mà muốn cho được thân thích hơn; cũng không phải vì muốn cho hàng xóm, bằng hữu khen tặng mình; lại cũng không phải vì tránh tiếng xấu là người bất nhân" (Đ.T.C. Mạnh tử.t.thượng.tr105). Những đặc điểm của lòng không nỡ trước sự bất hạnh của người khác là: không có sự tính toán, không có sự nghĩ ngợi nào và sự phản ứng có tính chất tự phát. Không có lợi lộc nào xen vào động cơ, hành động cứu trợ ở ngoài sự giám sát của ý chí. Một tình thế như vậy đáng được nêu lên làm tình thế mẫu. Nó phơi trần ra một các ứng xử tuyệt đối vô tư, trong đó cái cá nhân bị vượt qua: bất thần tôi không chủ động được nữa, tôi không làm chủ được những cứu cánh ích kỷ của mình được nữa; chính là bản thân sự sinh tồn, qua tôi, đương trỗi dậy vì người khác.".



Tôi chưa tìm lại được bài báo viết về người công nhân sau khi thoát chết hy hữu đã tự chui ra và lao vào cứu nạn những người khác. Cứu người nào gặp đầu tiên, bất kể việc người em trai cũng đang mất tích của mình. Đây cũng là một tình thế điển hình?


Nhưng chuyện thứ nhất còn chưa thể coi là tường minh thì chuyện thứ hai còn nan giải hơn-đó là câu chuyện của thời hiện đại, thời của internet.

Trong Mạnh Tử có dẫn chuyện vua Tề: một hôm vua đương ngồi trong đền bỗng thấy một người lôi một con bò qua cửa đền, con vật bị đưa đến nơi hiến tế, nó sẽ bị giết, đặng lấy máu làm lễ bôi chuông. Trước bộ dạng nhớn nhác của con vật, giống như một kẻ vô tội bị giải tới nơi nhục hình, nhà vua không nỡ, bèn ra lệnh thả nó ra. Viên quan hỏi: "Bỏ lệ lấy máu bôi chuông sao?" Vua trả lời: "Sao lại bỏ? Hãy đem con dê mà thế vào". Nhà vua bị chê là hà tiện, và chính nhà vua cũng biết cách xử sự của mình không ổn. Mạnh Tử chỉ ra điều mọi người chưa thấy: nhà vua đã đề nghị một cách vô tư thay con bò bằng con dê, chẳng qua là vì ông đã "nhìn thấy" vẻ xớn xác của con bò, còn con dê thì ông không "nhìn thấy". Đích thân ông được chứng kiến sự khủng khiếp của con bò: nó hiện ra đột xuất trước mắt ông, mà ông chả có một dự phòng nào cả; trong khi đó số phận của con dê ở ông chỉ là một ý niệm. Một ý niệm vô danh trừu tượng và do đó không có hiệu quả. (...) Phản ứng trực tiếp này của lòng không nỡ đủ để chứng tỏ tâm hướng đạo đức của ông.

Vấn đề của thời đại chúng ta là ở chỗ mọi con dê cũng đều hiển hiện trước mắt ta như những con bò cho dù sự việc cách ta cả nửa vòng trái đất. Cảm xúc của chúng ta có nguy cơ bị xói mòn dần theo thời gian. Xói mòn vì chúng ta chưa đeo đuổi được đến tận cùng kinh nghiệm sống cá nhân con đường đạo đức cổ xưa: đồng thời triển khai phản ứng không nỡ (không chịu đựng nổi) tới tất cả những gì ta vẫn nỡ (vẫn đành chịu) trước sự cùng khốn của con người/ cùng với đó là trước sự kiện ai cũng có "những điều mình chẳng làm" (tức là mình không thèm làm) đem triển khai, mở rộng ý thức chẳng chịu làm, không thèm làm tới những điều (đáng chê trách) mà mình vẫn cứ làm, đó là "nghĩa" vậy.

Tôi cũng chỉ là người bình thường và người bình thường có thể chọn giải pháp nguỵ tạo ví như chui vào giấc mơ của mình. Năm trước lúc xảy ra thảm họa sóng thần tôi đã bàng hoàng suy nghĩ về điều mình có thể làm gì. Tôi không minh bạch được. Đêm đó tôi mơ thấy mình tham gia cùng với bạn bè làm tình nguyện ở bên đó. Đi giữa những bạt ngàn xác chết đồng loại. Bỗng nhiêm một cơn sóng thần nữa xuất hiện và cái cảm nghĩ đầu tiên là đi tìm người thân của mình...

Phải chăng ở đây 1 lần nữa Freud lại đúng-rằng đạo đức thật đáng ngờ???

Hay là những vị Lạt-ma có thể điểm hoá cho ta đôi điều???




Rầu rĩ cũng phải cười




Geshe Langri Thangpa sống cách đây khoảng tám trăm năm tại Tây Tạng và là 1 Lạt-ma thông thái của trường phái Kadampa, đây là trường phái được đạo sư Ấn Độ A-đề-sa thành lập trước đó không lâu. Nguyên tắc của trường phái này là hết lòng phục vụ mọi người với lòng từ bi vô hạn, nhờ đó mà sự phân biệt giả tạo giữa "ta" và "người" một ngày nào đó sẽ tự biến mất.

Langri Thangpa cảm thấy trường phái này phù hợp với mình vì ông rất nhạy cảm và dễ dàng đặt mình vào tâm trạng của người khác, hầu như chính mình đang trong hoàn cảnh của người. Tuy nhiên cứ đặt mình vào cảnh khổ của người, ông càng buồn rầu theo. Lòng từ bi của ông lên cao độ đến nỗi ông rút vào núi để cầu nguyện, nhịn ăn và cảm nhận những gì chúng sinh đang đau khổ.

Bạn đồng tu khuyên ông: "Tất cả chỉ là một giấc mơ, giấc mơ này xuất hiện vì con người tự đồng hoá với một cái thân có sống, có chết, tại sao bạn lại quan tâm quá sức như thế".

"Không đáng buồn sao khi tất cả các loài hữu tình hàng ngày phải chịu cơn ác mộng đó", vị Lạt-ma Langri Thangpa tự nói. "Đời sống trong vòng sinh tử này khi lên khi xuống, giữa cái hy vọng được thoả nguyện và cái thất vọng cay đắng. Và tất cả nỗi khổ của cõi Ta-bà này là nỗi khổ của chính ta".

Ông được mệnh danh là "Người rầu rĩ thánh thiện". Ngày đó, ông trùm khăn trên đầu, như có tang và đi trong hành lang tu viện.

Nhiều tăng sĩ hỏi "Có ai chết chăng?". Ông lầu bầu trả lời "Nếu hỏi, có ai không chết chăng, xem ra thông minh hơn". Sau đó ông bỏ đi để tiếp tục thiền quán về cái khổ.

Lần khác, Langri Thangpa ngồi trước một cái bàn gỗ thấp, trên bàn đang có nhiều cơm. Ngửi có mùi thức ăn, một con chuột bò ra. Vị Lạt-ma đang trộn cơm với đá quí để làm Man-đa-la, đó là các đồ hình với ý nghĩa sâu kín mà ông thường dùng để thiền định.

Vị Lạt-ma ngồi yên lặng nên con chuột yên trí bò lên bàn. Con chuột ngửi nhằm một viên đá turkis và tìm cách kéo viên đá đi. Nhưng con chuột quá nhỏ mà viên đá khá lớn, lại dính chắc vào cơm nên không sao kéo ra nổi.

"Bạn thân mến", ông nói, "Cái viên xanh xanh đó không phải là pho mát đâu, nó là một viên đá không ăn được, bỏ nó đi". Thế nhưng con chuột đã kéo viên đá ra được 1 nửa, nhưng không mang theo được. Langri Thangpa nhìn con chuột với cách nhìn của hiền nhân từng trải: "Sự cố gắng vô vọng này làm ta nhớ đến cuộc tranh đấu của người đời với vật chất. Làm được gì đâu khi chuyển vật chất từ nơi này qua nơi khác. Tưởng rằng làm xong việc, nhưng cuối cùng lại đổ nát, hoàn toàn vô ích".

Vị Lạt-ma nghĩ đến đó thì con chuột biến mất và không thấy ra nữa. Ông đang tiếp tục hoàn thành Man-đà-la thì bỗng nhiên con chuột lại xuất hiện, lần này có thêm một con nữa. Hai con xúm nhau kéo viên đá ra khỏi đống cơm, một con kéo, một con đẩy, và cuối cùng chúng biến mất với chiến lợi phẩm.

Langri Thangpa cười to tiếng, từ nhiều năm nay ông mới cười. Tiếng cười của ông bất ngờ và đầy nhân hậu, mặt ông sáng lên như mặt trời vừa mọc.

Ông thốt lên thành tiếng: "Mong sao chúng sinh trong vũ trụ muốn gì được nấy".

-----------
Sư tử tuyết bờm xanh-Suyrya Das. Nguyễn Tường Bách dịch.