Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2007

Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại.




Sẽ tiếp tục giới thiệu với bạn nào quan tâm một số nội dung của tập sách mỏng này. Đây là phần kết luận.

Que sais _ je?
Luc Benoist
Signes, symboles et mythes.
Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại.

(Kết luận)
Cách Tư Duy Thủ Công.

Khoa học bắt nguồn từ phương pháp loại suy, tức là đưa vào thiên nhiên những mối quan hệ trong lao động của con người.
(S.Wei).



Bằng kinh nghiệm, chúng ta biết rằng ý nghĩ và tình cảm của con người chỉ có thể được truyền trực tiếp và bằng trực giác trong những hoàn cảnh đặc biệt. Thông thường chúng ta bị buộc phải vay mượn các phương thức diễn đạt mà chúng ta đã phân tích nhiều trong cuốn sách này, và nếu như chúng ta tìm cách rút gọn các phương thức biểu trưng thành một yếu tố, chúng sẽ trở thành một tổ hợp các cử chỉ. Nhưng các phương thức và cử chỉ ấy lại thường trái ngược nhau.


Trên thực tế, người ta thường nghe thấy có hai kiểu người đối lập nhau: con người của hành động là những người làm việc chân tay, họ ôm lấy chất liệu vô sinh hay chất sống, cải tạo hay biến đổi nó, và con người của lời nói là những người biến lời nói thành công việc của mình và chỉ đạo người khác, sống bằng từ ngữ và biểu trưng. Bài nghiên cứu của chúng tôi muốn chứng minh rằng hiện tượng lưỡng phân này mang tính giả tạo. Mọi suy nghĩ đều mang tính thủ công chẳng khác gì bàn tay. Chỉ riêng tay là hoạt động trước vật thụ động. Các nhà điêu khắc tạc tượng đá cho nhà thờ không hề “suy nghĩ” kém sâu sắc hơn những nhà logic học kinh viện. Đó là những hình thức khác nhau của cùng một công việc phải hoàn thành. Bởi vì mọi cách thể hiện đều chỉ ở bên ngoài, ngay cả khi cách thể hiện đó có tham vọng cho thấy cốt lõi bên trong. Siêu hình học trừu tượng nhất cũng được rút gọn lại trong môn hình học ẩn nhằm cụ thể hóa tư duy, hay đúng hơn là thích ứng với tư duy không gian từ khi nó xuất hiện.


Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn phương tiện với mục đích. Khi Decscartes rút gọn thế giới lại thành một tổ hợp các vận động trong không gian bằng phương pháp loại suy, và muốn đồng nhất hóa mọi hiện tượng với cái chỉ là biểu trưng của nó, sai lầm mà trong tôn giáo gọi là sự tôn sùng, thì cách thể hiện thực tế bằng đại số mà ông đưa ra chỉ là cách ghi mới và tiện lợi hơn, cũng như những nhà trọ mà ở đó khách nghỉ chỉ có thể dùng những gì anh ta mang theo, cũng ít thông tin như những bức chân dung người máy nơi mọi người đều nhận ra những nét của mình.


Biểu tượng tạo nên một ảo ảnh giữa sự vật và ý nghĩ, giống như người phụ trách phục trang trên sân khấu khóac cho ý nghĩ mới nhất của chúng ta bộ quần áo cũ của các chú hề, sau khi đã sửa chữa theo yêu cầu của các nhân vật mà chúng thể hiện. Thực tế ẩn dưới bộ quần áo giả trang đó là không diễn đạt được. Giữa thuyết duy danh dựa vào kinh nghiệm theo đó chỉ có từ ngữ, tức là phục trang giống với sự vật, và chủ nghĩa hiện thực của Platon dựa trên mật độ không thay đổi của bản chất, biểu tượng đóng vai trò cầu nối làm sống động mọi hình thức bề ngoài, giống như diễn xuất của diễn viên biến lời thoại của họ thành cảm xúc, thành những cảnh đời xúc động.


Sự biến hóa này diễn ra trên tất cả các bình diện. Eldington đã nói:”Cái mà người ta gọi là sự việc chính là cách diễn giải một quan sát...Vật lý học không nghiên cứu tính chất không thể dò xét được của vật chất, mà chỉ nghiên cứu những gì máy móc ghi nhận được, ghi nhận này lại không liên quan đến tính chất ấy như liên hệ giữa một số điện thoại và người chủ thuê bao.” Theo Hilbert, khẳng định này có thể áp dụng vào tóan học, vì trong đại số, bản chất riêng của các sinh vật không được tính đến. Chỉ quan hệ giữa chúng mới đóng vai trò quan trọng, tức là cái mà logic hình học topo xét đến.


Chúng ta làm biến dạng hiện tượng khi truyền đạt nó và khi muốn thể hiện nó. Chúng ta không thể khách quan mà không từ bỏ ý kiến của chính mình và chúng ta chỉ giữ lại từ sự vật được nói tới cái mà chúng ta tự đo bằng những đơn vị quan sát, nếu như có thể nói như vậy. Nhưng có bao nhiêu đơn vị thì có bấy nhiêu ý thức. Mọi cách thể hiện đều mang tính cá nhân và không loại trừ những khả năng khác.


Khi rút gọn mọi thứ lại thành vận động, người ta đã loại bỏ thế giới, giống như Descartes, đối với chúng ta điều này làm nên giá trị của thế giới, giúp ta thưởng thức được màu sắc, hương thơm, âm thanh, mùi vị của hoa quả trên thế giới, tóm lại là tất cả sự phong phú của thế giới mà ta cảm nhận được, nếu không có thế giới thì chính không gian cũng không tồn tại, bởi vì Einstein đã cho chúng ta biết rằng không gian chỉ tồn tại vì có những sự vật nằm trong đó.


Nhưng nếu biểu trưng, giống như vật có phép thần thông, làm tái hiện lại được thời gian hay một tình cảm nào đó đã qua, nhờ hình ảnh còn nhớ được của một nhân chứng vắng mặt hay đi xa từ lâu, thì những hình ảnh bằng từ ngữ hay có hình dạng chưa bao giờ được hiểu toàn bộ, như tác giả của chúng đã suy nghĩ hay trải qua, nhất là nếu tác giả sống cách chúng ta hàng thế kỷ. Mỗi người đều là tù binh của thời đại mình, và bản thân tóan học cũng mang tính lịch sử. Con người chìm đắm hoàn toàn trong đại dương lịch sử. Trí óc con người bị hạn chế vì ngôn ngữ mẹ đẻ. Con người sống và tư duy trong phần được bọc kín của thế giới mà nền văn hóa của anh ta tìm hiểu được và cho phép anh ta đặt tên. Sự hiện thân luôn luôn mới phải làm sống lại được mọi cách thể hiện thường được chấp nhận để người nhận hiểu được. Giữa khái niệm logic cho rằng mỗi con người đều sẽ phải chết và cái chết đột ngột của mẹ mình là một cú sốc, lúc đó chúng ta phát hiện ra điều khủng khiếp dường như làm ta biến đổi bằng phép thuật. Kierkegaard đã diễn đạt điều này một cách tuyệt vời khi nói: “Tôi chỉ hiểu chân lý khi nó trở nên sống động trong tôi”


Trực giác không rõ ràng của ý nghĩ về mẹ không bao giờ có thể trở thành logic đơn thuần. Bao giờ cũng vẫn còn một cái gì đó mang tính truyền thống, quá khứ đã có được. Gonseth nói:”Trong công trình xây dựng trừu tượng nào cũng có tàn dự trực giác, không thể loại bỏ được, nhờ đó mà nó trở nên có giá trị và có ý nghĩa”. Giống như đối với tảng băng, phần biểu hiện ra và thấy rõ là dấu hiệu báo động của một thực tế không đo đếm được và không nhìn thấy được.


Như vậy, bản thân các biểu trưng cũng có giới hạn. Nhưng trước khi được cố định, các hình ảnh trong tâm trí ấy đã là chỉ dẫn bên trong của chúng ta, là vật chất của cuộc sống. Điệu bộ gây xúc động, bộ phim liên tục, sân khấu rối bóng âm thầm làm sống động ý thức của chúng ta ấy chỉ có thể được sinh ra và tồn tại nếu trước đó chúng ta đã thiết lập được hệ dấu hiệu có thể hiểu được và nếu chúng ta có khả năng giải phóng lời hát của mình giống như Orphée. Một nền văn minh được xác định chính bằng sự chuẩn hóa các dấu hiệu đó, bằng bảng ngôn ngữ biểu trưng và nghi lễ đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét